Thứ Tư, 16 tháng 1, 2013

CÁCH THỞ CÓ LỢI CHO SÚC KHỎE

CÁCH THỞ CÓ LỢI CHO SỨC KHỎE
 (Theo Hạnh Phúc Gia Đình) 
 
Ai cũng biết Yoga rất tốt cho sức khỏe nhưng Yoga thực sự tốt như thế nào, hãy cùng tìm hiểu nhé!
Về mặt sức khỏe:
- Làm tăng sự dẻo dai: Quá trình co giãn các cơ theo một phương pháp mới sẽ giúp bạn trở nên thật dẻo dai và mang đến sức chịu đựng cao cho cơ và các khớp xương. Dần dần, bạn sẽ cảm thấy được sự uyển chuyển của các cơ trong cơ thể, lưng, vai và hông.
- Tăng cường sức mạnh: Các tư thế của yoga đòi hỏi sự tập trung trọng lượng vào toàn bộ cơ thể theo những cách thức mới, ví dụ như quá trình đứng thăng bằng một chân (Tư thế Tree Pose) hay chỉ vào một phần cánh tay (Tư thể gập người xuống và nâng người bằng cánh tay: Downward Facing Dog). Một vài bài tập khác cũng đòi hỏi các động tác chậm và độ bền cao.
- Giúp cơ săn chắc: với một cường độ luyện tập thường xuyên và bài bản, yoga hoàn toàn có thể giúp bạn đạt được sự săn chắc cho các cơ trong cơ thể.
- Giảm thiểu sự đau nhức: Sự dẻo dai và độ bền sẽ giúp ngăn ngừa các cơn đau nhức ở vùng lưng. Nhiều người phải chịu những cơn đau nhức do phải ngồi sử dụng máy tính và lái xe nhiều. Điều này thường gây ra sự đè nặng vào xương sống và vấn đề này sẽ được sớm giải quyết với yoga. Yoga cũng có thể ngăn cản các nguy cơ gây ra các loại đau nhức khác.
- Điều hòa nhịp thở tốt hơn: Hầu hết chúng ta cho rằng quá trình trao đổi khí chỉ là sự hít thở không khí vào trong phổi mà không cần quan tâm phải hít thở như thế nào.Nhưng những bài tập thở của Yoga được gọi là Pramayama sẽ tập trung vào hơi thở và sẽ chỉ rõ cho chúng ta biết cách thở tốt hơn bằng phổi. Điều này rất có lợi cho sức khỏe. Bên cạnh đó, những cách thở này cũng sẽ giúp làm thoáng đường thở bằng mũi và điều hòa hệ thống trung ương về mặt lo lắng. Điều này có ý nghĩa rất lớn không những về mặt sức khỏe mà còn cả về mặt tinh thần.
 
Về  giá trị tinh thần:
- Đạt được sự điềm tĩnh cao: Các bài tập của Yoga Asana có những tác dụng rất rõ rệt. Quá trình tập trung vào những gì đang làm sẽ mang đến hiệu quả trong việc tập trung tư tưởng. Yoga cũng sẽ giới thiệu cho bạn những kĩ thuật thiền định, ví dụ như làm cách nào để bạn thở tốt hơn và suy nghĩ một cách thoải mái. Điều này sẽ giúp tinh thần thật nhẹ nhõm.
- Làm giảm bớt căng thẳng: Các bài tập vật lý có tác dụng làm giảm tối đa sự căng thẳng. Vì yoga đòi hỏi sự tập trung cao nên mọi buồn phiền căng thẳng trong cuộc sống sẽ nhanh chóng bị lãng quên trong suốt quá trình bạn tập yoga. Điều này tạo nên nguồn năng lượng mới để loại bỏ sự căng thẳng và xem xét mọi chuyện một cách thận trọng hơn. Đặc biệt không gian tập yoga cũng có ảnh hưởng đến việc giảm bớt sự mệt mỏi, quên đi những chuyện buồn trong quá khứ và tiếp tục tin tưởng vào tương lai.
- Nhận thức được vẻ đẹp của cơ thể: Tập yoga sẽ làm cho bạn cảm thấy yêu thích chính bản thân mình hơn. Bạn thường luyện tập các động tác nhẹ và tinh tế, chính điều này sẽ giúp bạn tăng khả năng tập trung của bạn. Dần dần, điều này sẽ làm cho bạn ngày càng tự tin hơn về thân hình của chính mình.
VÌ SAO TA CẦN PHẢI TẬP YOGA?
(Theo Health and Family)
Thở theo phương pháp khí công:
Người phương Đông có nhiều phương pháp rèn luyện cổ truyền như YOGA, thái cực quyền, khí công và có thể gọi chung là phương pháp dưỡng sinh. Đây là phương pháp tối ưu để bảo vệ sức khỏe, tăng khả năng thích nghi giúp con người có khả năng thể lực và trí lực cao nhất, tiêu hao năng lượng tiết kiệm nhất trong mọi lao động nặng nhọc phức tạp nhất.
1. Tại sao phải tập thở ?
Người ta từ khi cất tiếng khóc chào đời cho đến khi trút hơi thở cuối cùng luôn luôn phải thở. Người bình thường không thể nhịn thở quá 2 phút. Thở còn được gọi là hô hấp (tiếng Hán “hô” là thở ra, “hấp” là hít vào). Bình thường hô hấp được duy trì bởi trung tâm tự động. Nhưng hô hấp cũng luôn biến động để đảm bảo nhu cầu năng lượng luôn thay đổi vì hoạt động sống của con người luôn đáp ứng phù hợp với điều kiện thay đổi của môi trường xung quanh. Thiên nhiên vốn đã có rất nhiều biến động ảnh hưởng đến con người. Ví dụ như: thời tiết, khí hậu, thổ nghi nhưng môi trường xã hội, nhất là xã hội công nghiệp, có quá nhiều căng thẳng, gò ép, độc hại sinh ra các bệnh được gọi là “bệnh của văn minh” như uể oải, ăn ngủ kém, giảm trí nhớ, giảm sức chú ý, dễ bị kích thích, cáu gắt, lo âu, trầm cảm, cao huyết áp hoặc giảm huyết áp, rối loạn dẫn truyền điện tim, điện não mất ổn định, viêm loét dạ dày tá tràng, lão hóa sớm. Các chứng bệnh này thường được chăm chữa bằng thuốc men nhưng nhiều khi không giải quyết được căn nguyên, lại có nhiều tác dụng phụ gây tâm lý tiêu cực phụ thuộc vào thầy vào thuốc. Nhưng rất tiếc việc ỷ lại vào thuốc men, vào các tiến bộ y sinh học, thậm chí cả lòng tin tưởng vào phép lạ, thuốc tiên, cúng bái còn khá phổ biến trong cộng đồng. Việc điều chỉnh, rèn luyện bản thân để thích nghi với môi trường còn rất bị coi nhẹ. Việc tuyên truyền, học tập các kiến thức có liên quan đến sức khỏe còn rất hạn chế.
Người phương Đông có nhiều phương pháp rèn luyện cổ truyền như YOGA, thái cực quyền, khí công và có thể gọi chung là phương pháp dưỡng sinh. Đây là phương pháp tối ưu để bảo vệ sức khỏe, tăng khả năng thích nghi giúp con người có khả năng thể lực và trí lực cao nhất, tiêu hao năng lượng tiết kiệm nhất trong mọi lao động nặng nhọc phức tạp nhất. Đồng thời, dưỡng sinh xây dựng lối sống lành mạnh, nâng cao ý chí và bản lĩnh ứng xử, làm giảm các cảm xúc âm tính (buồn lo, tức giận), tăng các cảm xúc dương tính (vui vẻ, rộng lượng, vị tha, hướng thiện), bảo vệ, lập lại cân bằng âm dương (mất cân bằng âm dương là nguyên nhân của mọi loại bệnh tật). Vì vậy, dưỡng sinh không chỉ cần thiết với người già, người có bệnh mà nó còn cần cho cả những người khỏe nhất và chính dưỡng sinh tạo ra những người khỏe nhất.
Luyện tập dưỡng sinh là để chủ động điều chỉnh hoạt động của cơ thể. Chúng ta không thể chủ động điều khiển được tất cả các bộ phận trong cơ thể. Chẳng hạn như tim đập nhanh hay chậm, dạ dày co bóp hay không thì ta không trực tiếp điều chỉnh được. Nhưng phần nào, ít hay nhiều, ta có thể điều khiển được 3 khâu trong hoạt động của chúng ta là hơi thở, ý nghĩ và hoạt động cơ bắp (tức là luyện khí, luyện ý và luyện hình). Luyện khí là cơ bản cốt lõi, luyện ý cũng phải thông qua luyện khí và muốn phát huy hết hiệu quả của luyện hình cũng phải kết hợp với luyện khí.
Con người sống trong xã hội thường ít vận động cơ bắp, có quá nhiều lo buồn, nghịch cảnh, độc hại gây nên rối loạn tâm lý, trong đó có rối loạn hô hấp. Cách đây 5000 năm, đạo YOGA đã xác định rằng con người ta sinh ra biết ăn, biết đi, biết nói nhưng không biết thở. Vì vậy, thở là khâu then chốt trong tất cả các phương pháp tu luyện cổ truyền phương Đông. Thở gắn kết con người và vũ trụ, tác động qua lại giữa tâm lý và sinh lý, điều hòa âm dương, khơi dậy tiềm năng, đẩy lùi bệnh tật.
Từ truớc công nguyên, sách NỘI KINH TỐ VẤN đã viết: “hô hấp là sống, hô hấp kém là sống kém”. Do vậy, ta cần phải thở sâu, rèn luyện thân thể và tinh thần để đạt được chân khí; dưỡng thần tích cực, dự phòng tích cực thì ít khi dùng đến thuốc.
2. Thở như thế nào cho đúng?
Thở bụng như một hài nhi là lối thở tự nhiên, chưa bị tác động của cuộc sống với nhiều yếu tố gò ép làm cho sai lệch dần.Thở bụng có khả năng hấp thu khí vào nhiều hơn thở ngực nhờ có động tác hạ thấp cơ hoành để mở rộng thêm thể tích lồng ngực về phía dưới và tống khí thở ra triệt để hơn bằng động tác dâng cao cơ hoành do thót bụng.
Thở bụng có tác dụng độc đáo ở chỗ vận động được khí của vùng đan điền được coi là vùng bể khí (khí hải) do tích tụ nhiều máu của cơ thể (vùng trọng lực) và chứa các cơ quan có hoạt lực cao nhất với những cảm giác mạnh nhất như cơ quan sinh dục, bài tiết, tiêu hóa và một loạt đám rối thần kinh quan trọng. Hoạt tính, trương lực, cảm giác của những cơ quan này là dạng khí cực kỳ quan trọng (không phải khí thở) mà nếu vận dụng khéo thông qua thở bụng sẽ đảm bảo được điều hòa khí và huyết từ các vùng này lên nuôi dưỡng cho các cơ quan ở các vùng trên, trong đó các cơ quan có chức năng quan trọng đối với toàn cơ thể là não và tim.
Ngoài ra, phía trên lồng ngực , hai vai gắn với hai cánh tay phải đảm đương nhiều việc khéo léo, chính xác. Nhiều khi để thực hiện những động tác này phải nín thở rất mệt. Biết thở bụng thì không bao giờ phải nín thở cả.
Hơi thở phải nhỏ và êm, liên tục và nhẹ nhàng, khoan thai và sâu dài, không được gò ép mà tùy theo cảm giác, nhu cầu và quá trình luyện tập phải ngày một chủ động, làm nhịp tim chậm hơn và luôn đều đặn. Tập thở ở tư thế tĩnh không phải là để cung cấp nhiều oxy hơn; trái lại, ngồi yên mà đưa vào nhiều oxy quá, khử đi nhiều khí cacbonic quá thì độ axit trong huyết sẽ giảm và độ kiềm tăng quá mức (mất cân bằng kiềm toan) sẽ gây ra chóng mặt. Vì vậy, cần thở sâu nhưng phải rất chậm. Đây là vận dụng hơi thở để tác động ngược lại lên thần kinh và các bộ phận khác. Lúc thần kinh bị kích thích, hơi thở cùng các bộ phận khác đều rối loạn. Khi đã điều hòa được nhịp thở thì hoạt động của các cơ quan, bộ phận dần dần cũng được điều hòa, cân bằng trở lại.
Nhắm mắt, tập trung ý thức vào nhịp thở để thư giãn tinh thần: ý thức con người thường xuyên bị nhiều tác nhân kích thích gây căng thẳng. Do đó, cần tạo điều kiện cho nó được thư giãn nhưng không thể bằng nghỉ ngơi thụ động vì “thân nhàn tâm bất nhàn”. Thở là biện pháp sinh lý tự nhiên nhất để ta tập trung vào nó khiến quên đi các kích thích bất lợi. Người châu Âu cũng có quan niệm là làm chủ được hơi thở của mình là làm chủ được tình thế. Thở đúng không chỉ nhằm lấy được nhiều oxy mà điều quan trọng hơn là đảm bảo cho cơ thể sử dụng oxy hợp lý nhất. Ở tế bào các chất dinh dưỡng, nhờ phản ứng oxy hóa-khử tạo ra năng lượng nhưng cũng tạo ra các gốc tự do gây hại cho tế bào, gây lão hóa và gây ung thư. Thở lập lại cân bằng âm dương, chống rối loạn quá trình oxy hóa- khử, chống lão hóa. “Chuyên khí chí nhu” là chuyên tâm về khí để cơ thể được thư giãn, mềm mại như trẻ thơ. Thân thể trẻ thơ là một thể thuần dương nên khí vượng, khí vượng thì huyết đầy đủ. Khí huyết càng đầy đủ thì gân bắp càng mềm dẻo. Từ tráng đến lão, khí huyết ngày càng giảm, gân bắp ngày càng thoái hóa. Như vậy, đường lối dưỡng sinh là thực hiện sự nhu nhuyễn, kéo dài thời gian xung khí của giai đoạn tráng niên và trì hoãn giai đoạn suy thoái của tuổi già.
                       
 




Không có nhận xét nào: