Chủ Nhật, 31 tháng 1, 2016

NGÀY TẾT NÓI VỀ HAI MƯƠI BỐN LOÀI HOA MAI

NGÀY TẾT NÓI VỀ HAI MƯƠI BỐN LOÀI HOA MAI
Nguồn: Internet

Trên đất nước Việt Nam, người ta thường biết đến hoa mai qua loại hoa mai vàng năm cánh đặc trưng xưa nay mà người ta còn gọi là mai rừng, mai tự nhiên hay mai thiên nhiên chỉ có năm cánh, hoa nhỏ và thân cao to có khi đạt đến chiều cao hơn chục mét, hương thơm thoang thoảng, lây lất mùi gỗ rất dễ chịu và mát, không nồng và đậm như một số loài hoa khác. Nhưng thật ra, trên thế giới có tất cả hai mươi bốn loài mai thuộc họ mai tức là chi họ Ochna (Ochnaceae) khác với loài mai mơ gần giống như hoa đào của Trung quốc có màu trắng hoặc trắng hồng, cánh nhỏ, nhụy rậm và dày thường mọc thành chùm và hoa rậm, thân giống cây hoa đào, đoạn xù xì, đoạn trơn láng, màu xanh, da bóng và mọc cao to như cổ thụ.
Hoa mai tại Việt Nam mọc phổ biến ở miền Trung và miền Nam, đa phần là mai rừng tự nhiên. Sau này, người ta sử dụng một số loại mai ghép lại với nhau và cho ra đời một loại mai nhân tạo đó chính là mai giảo nhiều cánh, số lượng cánh có thể lên đến hàng chục cho đến hàng trăm cánh xếp chồng lên nhau thành một đóa hoa dày và lớn. Nhưng thật ra, hoa mai vàng trong tự nhiên cũng có loài đạt đến số lượng cánh rất cao (từ 12 cho đến 18 cánh). Mai tự nhiên có mùi hương tự nhiên rất thơm và thường nực nồng vào buổi sáng và dần dần mất mùi vào những khoảng thời gian còn lại trong ngày. Có lẽ vì buổi sáng sớm, nhiệt độ còn thấp, sương chưa tan nên hương thơm còn giữ lại trong không khí, đến khi mặt trời lên, nhiệt độ tăng dần, sương tan hết cũng là lúc hương hoa cũng tản ra trong không khí nên chúng ta nghĩ là hoa mất mùi sau khi mặt trời lên cao.
Hoa mai tại Việt Nam có mười tám loại như sau:
1 – Mai năm cánh: Loại mai vàng mọc phổ biến tại miền Trung (Từ Đà Nẵng, Quảng Nam cho đến Khánh Hòa) và trên dãy trường Sơn trong những khu rừng già. Đây là loại mai năm cánh tự nhiên, hoa nhỏ, thân vừa và nở hoa không nhiều và rậm như một số loài mai khác mà nở thưa thớt. Nhưng nếu lạc vào rừng mai này vào mùa xuân thì chúng ta sẽ thấy sắc hoa vàng rực rỡ cả một khu rừng, cả một triền núi và xác hoa rơi có khi vàng cả một dòng suối. Hương thơm ngập tràn và lan tỏa cả một vùng rộng lớn. Ở một số ngọn núi thuộc đồng bằng sông Cửu Long như tại vùng Thất sơn (Bảy núi) cũng có loại mai này nhưng ít hơn và rải rác không tập trung.
2 – Mai núi: Cũng là một loại mai rừng nhưng có số lượng cánh nhiều hơn từ 12 cho đến 18 cánh, có khi còn hơn thế nữa. Mai này mọc trên những núi đá khô khốc và sống chủ yếu bằng hơi sương, nước mưa và nước ngầm trong lòng đất cộng với khí hậu ẩm thấp của miền núi. Loài mai này thường xuất hiện nhiều tại các vùng núi thuộc Tây Nguyên và nước bạn Campuchia.
3 – Mai chủy: Cũng là một loại mai rừng nhưng thân cây rất to, hoa nhiều, lá rộng, xanh bóng và có hình răng cưa. Loại mai này có hoa mọc thành chùm rất đẹp nên gọi là mai chủy (chủy có nghĩa là chùm, quần thể, quây quần lại, đặc nghẹt).
4 – Mai động, mai sẻ: Là một loại mai chuyên mọc ở những vùng cát trắng gần biển. Loại mai này có thân suôn thẳng và tròn và trổ bông thưa thớt. Nếu chúng trổ năm cánh thì gọi là mai sẻ, còn nếu có hơn năm cánh thì đúng là loa mai động. Mai động và mai sẻ mọc rải rác từ các tỉnh từ Quảng Bình, Quàng Trị vào tận các vùng duyên hải thuộc miền trung và có khi thấy chúng ở các vùng đồi cát trắng thuộc miền nam như Tây Ninh, Đồng Nai, Biên Hòa v..v..
5 – Mai chùm gửi, mai Tỳ bà, mai vương: Là một loại mai sống nhờ trên thân cây khác, nhất là các loại cây cổ thụ to lớn. Chúng sống bám vào thân cây, một phần hút chất dinh dưỡng từ đất, một phần hút chất dinh dưỡng từ cây mà chúng bám vào. Không giống các loại chùm gửi khác chỉ bám trên thân cây khác, mai chùm gửi sống phân nửa dựa vào bộ rễ bám vào lòng đất của nó. Mai chùm gửi có thân ghồ ghề, cứng và xù xì cùng với những khối u kì dị. Chồi và tược cũng như hoa đâm ra từ những khối u đó. Hoa trổ khá dày và khít thành từng chùm đặc nghẹt. Có nơi còn gọi nó là mai tỳ bà hay mai vương.
6 – Mai hương, mai thơm hay mai ngự: Là một loại mai vàng có mùi hương rất thơm, thơm hơn tất cả các loài mai khác. Mùi hương của nó rất đặc biệt và có lẽ là nồng nàn hơn tất cả các loài mai nên nó được gọi là mai hương cho đúng với tính chất đặc biệt của loài mai vàng năm cánh này. Ở Bến Tre cũng có rất nhiều loại mai này mà người dân ở đây gọi nó bằng một cái tên rất miệt vườn là “Mai thơm” vì nó rất thơm, thơm hơn những loại mai thông thường mà người dân Nam bộ thường gặp. Ở Huế, loại mai này còn được gọi là “Mai ngự” vì nó được trồng trong cung và rất được Hoàng tộc mến chuộng dùng làm quà biếu cao cấp nên nó gọi là “Mai ngự”.
7 – Mai châu (Mai trâu): Là một loại mai trổ hoa rất lớn, hoa của loài mai này lớn một cách lạ thường, cánh to và rộng, màu vàng rực. Mỗi đóa hoa có đường kính hơn 5cm nên người ta gọi nó là mai trâu mà người Nam bộ thường đọc trại ra thành “mai châu”. 
8 – Mai liễu: Là một loại mai có cành rất mềm và rũ xuống như cây liễu, hoa trổ rất ít. Lá mai nhọn và nhỏ, thon dài như lá liễu nên được gọi là mai liễu. 
9 – Mai nhọn: Là một loại mai có lá dài và nhọn, nụ hoa và cánh hoa cũng có hình dạng tương tự.
10 – Mai Cà Ná: Là loại mai đặc trưng mọc tại vùng biển Cà Ná thuộc tỉnh Ninh Thuận. Loài mai này có thân nhỏ, èo uột, cành rất giòn, dễ gẫy, lá hình bầu dục, trơn láng và có răng cưa quanh rìa lá. Người dân ở đây gọi nó là mai rừng Cà Ná.
11 – Mai Vĩnh Hảo: Vào địa phận của tỉnh Bình Thuận, huyện Tuy Phong, xã Vĩnh Hảo, nơi có nguồn nước khoáng thiên nhiên nổi tiếng nhất Việt Nam là “Nước khoáng Vĩnh Hảo” thì có một loại mai vàng nữa cũng là loài đặc trưng của vùng này, không khác gì mấy so với mai Cà Ná nhưng nó lại được người dân ở đây đặt cho cái tên theo địa danh nơi nó đang sống là “Mai Vĩnh Hảo”. Mai Vĩnh Hảo có thân cứng, lá nhỏ, hoa to và phẳng, đặc biệt rất lâu tàn.
12 – Mai tứ quý: Loài mai đặc trưng của vùng Nam bộ. Mai này cũng trổ hoa vàng nhưng sau khi cánh hoa rụng đi thì đài hoa còn lại năm cánh màu đỏ với nhụy hoa và ba hạt màu đen như hạt đậu. Năm cánh hoa màu đỏ cũng tròn trịa và giống hình một đóa hoa mai. Do tính chất nở hai lần trên cùng một đóa nên người ta còn gọi mai tứ quý là nhị độ mai. Mai này trổ bông lác đác quanh năm nên mới gọi là mai tứ quý (xuân, hạ, thu, đông đều trổ hoa). Mai tứ quý thân sần sùi và đen. Có cây phát triển rất to và cao nhưng đa số là những cây lâu năm. Càng lâu năm nhìn nó càng cổ kính và chắc chắn.

13 – Mai giảo: Là loại mai có rất nhiều cánh được ghép lại từ nhiều loại mai khác nhau trên cùng một cây mai. Mai giảo lấy gốc mai vàng làm chủ đạo, sau đó ghép nhánh của các loại mai khác vào để cho ra đời một loại mai có rất nhiều cánh, rất nhiều màu sắc trên cùng một cây mai. Loại này là loại mai nhân tạo mà chúng ta thấy rất nhiều hiện nay trên thị trường mai Tết.

Sáu loại mai trên thế giới:
1 – Mai vàng Campuchia (Mai Cao Miên): Tên khoa học là Ochna integerrima. Hoa mai có từ 5 đến 9 cánh, khi nở ra thì úp ngược về phía cuống hoa chứ không xòe rộng như các loại mai Việt Nam, hoa có màu vàng tái (sậm gần như cam đậm). Loại mai này cũng có thấy ở Việt Nam, phần nhiều mọc trong những khu rừng thuộc miền Nam và miền Trung. Chúng là loài cây hoang dã cũng có phân bố ở một số nơi có cồn cát nóng và ven những bờ sông râm mát. Mai vàng Campuchia thuộc dạng thân gỗ, nhánh gầy, mảnh và dài. Lá đơn màu xanh nhạt và bóng mọc thưa trên cành, mép lá có răng cưa nhỏ. Hoa mọc ra từ nách lá thành chùm, cuống hoa ngắn, đài hoa xanh bóng và không che kín nụ. Ở Việt nam, người ta thường dùng loại mai này để ghép thành mai giảo vì nó có khả năng tăng số lượng cánh lên rất cao. Không những thế mà hiện nay nó còn có ba màu do lai ghép là đỏ, vàng và trắng.



2 – Mai vàng Nam Phi: Có khoảng 12 loài mai thuộc chi họ mai Ochna bao gồm dạng cây lẽ và cây mọc thành bụi. trong đó có hai loài phổ biến là Ochna pretoriensis và Ochna pulchra. Hai loài này xuất hiện rất nhiều tại vùng Koppie. Loài Ochna pulchra cao khoảng 37m, vỏ cây thường có hiện tượng tróc ra, lá dễ rụng. Chúng mọc hoang dã ở rừng, vỏ cây màu xám, xù xì ở gốc, nhánh thân cây bị tróc vỏ màu kem nhạt. Mai Châu Phi có hai màu vàng và hồng. Ngoài ra, ở Nam Phi còn có các loại mai rất giống với mai tứ quý tại Việt Nam.
Ochna pretoriensis 
Ochna pulchra 
3 – Mai vàng Myanmar (Miến Điện): Ở đất nước Phật giáo này có một loài mai mang tên khoa học là Ochna serrulata gần giống với loại mai Nam Phi. Tuy nhiên, hình thức của hoa mai có khác đôi chút ở chỗ cánh hoa bẹt hoặc có bầu noãn đỏ như mai tứ quý, tồn tại rất lâu trước khi rụng hoàn toàn.
4 – Mai vàng Indonesia: Có tên khoa học là Ochna kirkii Oliv, Ochna serrulata. Tất cả đều có nguồn gốc từ Châu Phi. Tuy nhiên do địa chất khác nhau nên chúng có ngoại hình lớn hơn mai Châu Phi. Có loài nở hoa vào mùa xuân, mùa hè hoặc nở cả bốn mùa như mai tứ quý.
5 – Mai vàng Madagascar: Là loại mai có tên khoa học là Ochna greveanum với năm cánh tròn trịa, dúm bèo theo rìa cánh giống như mai cánh dúm ở Việt Nam, lá mai dài và rũ xuống từng chùm.
6 – Mai vàng Châu Phi: Khác với mai vàng Nam Phi vì nó giống mai vàng năm cánh của Việt Nam nhưng có tên khoa học khác là Ochna thomasiana thuộc dạng cây bụi, lá hình oval, đầu lá nhọn và bén dài khoảng 10cm. Hoa rộ trên cành vào mùa xuân nhưng đôi khi lại bất chợt nở hoa vào mùa hè với số lượng ít hơn. Cánh hoa thon dài khoảng 2cm, đài hoa bung ra rộng và trở thành màu đỏ tía, bên trong có trái non màu xanh giống như mai tứ quý của Việt Nam.

Đó là 19 loại mai của Việt Nam và thế giới, trong đó có loài thứ 4, thứ 6 và thứ 7 đã mang bảy cái tên khác nhau theo cách gọi của dân gian Việt Nam. Nếu tính tổng cộng là có 24 loài mai trên khắp thế giới hoặc có thể còn nhiều hơn nữa. Đúng là hoa mai rất đa dạng và phong phú chủng loại. Ở Trung Quốc, họ vẫn gọi cây đào là cây mai vì có nhiều loại rất giống hoa mai nhất là hồng đào và bạch đào mà họ hay gọi là hồng mai và bạch mai nhưng cánh mai tròn và nhỏ như cánh đào, nhụy hoa rậm và dày, thân cây giống hệt như cây đào nên thường gọi là đào chứ không gọi là mai.

Ngày Tết nói chuyện về sự phong phú của cây mai để chúng ta cùng nhau tìm hiểu về loại hoa đặc trưng của mùa xuân này. Hoa mai là biểu tượng của sự may mắn, tốt đẹp, một sự khởi đầu hoàn hảo và thịnh vượng cho một năm mới. Hoa mai còn có ý nghĩa xua đuổi những điều xấu xa, không tốt đẹp cho một năm luôn được bình an, hanh thông và phát đạt.

Thứ Bảy, 30 tháng 1, 2016

XUÂN THANH BÌNH

XUÂN THANH BÌNH
Phùng Trần - Sơn Trần Quế


Image result for tết việt nam 2016
Dê đi Khỉ đến tiếp niên vần,
Quê mẹ mong ngày sớm đổi tân.
Độc lập tự do toàn lãnh thổ,
Ấm no hạnh phúc khắp muôn dân.
Noi gương truyền thống dòng Rồng Lạc,
Thắp đuốc nhân quyền nước Việt Nam.
Sấm Trạng còn ghi thời vận chuyển,(*)
Xuân thanh bình khởi sắc năm Thân.

(Illinois,  Xuân Bính Thân 2016)

(*) Mã Đề Dương Cước Anh Hùng Tận
     Thân Dậu Niên Lai Kiến Thái Bình
  (Sấm Ký Trạng Trình Nguyễn Bĩnh Khiêm)

CẬN CẢNH GỐC MAI GIÁ GẦN 100 TRIỆU ĐỒNG

CẬN CẢNH GỐC MAI GIÁ GẦN 100 TRIỆU ĐỒNG
Khánh Hồng

Gốc mai này có thế 5 tầng (hay còn gọi là ngũ phúc) được chủ nhân ra giá 90 triệu đồng.
Anh Huỳnh Phước Châu (trú phường Hòa An, quận Cẩm Lệ, TP Đà Nẵng) cho biết gốc mai này được anh mua lại của một người khác cách đây 15 năm. Trong vườn mai của nhà anh Châu với mấy trăm gốc mai thì đây là gốc mai đẹp nhất.
Chậu mai này giống thanh mai, thế 5 tầng (hay còn gọi là ngũ phúc) được anh Châu ra giá 90 triệu đồng. Có một doanh nghiệp đến mua và trả giá 70 triệu đồng nhưng anh chưa bán.
“Gốc mai này có thế ngũ phúc, bông búp to, dày, rất đẹp và đúng vào dịp Tết sẽ nở rất đẹp. Tết này tìm được gốc mai như thế này không phải dễ”, anh Châu nói.
Gốc mai có thế ngũ phúc 
Khoảng cách giữa các tầng đều, đẹp
Hoa to, dày
Chậu mai này được chủ nhân ra giá 90 triệu đồng

Thứ Ba, 26 tháng 1, 2016

CHƠI XUÂN

CHƠI XUÂN
Thái Quốc Mưu

Image result for đi chơi xuân
Mưỡu:
Mỗi năm chỉ một Xuân hồng,
Thưởng Xuân nâng chén rượu nồng đầy vơi.
Vui Xuân cùng với Đất, Trời,
Chơi Xuân cùng với người người du Xuân.

Nói:
Quẳng những ưu tư trên đất khách.
Đón Xuân về phong cách thảnh thơi.
Yêu đời hưởng cảnh Xuân tươi.
Vui Xuân thắm, đậm men đời trong Xuân.

Cuộc sống nhạt nhòa cơn nắng hạ,
Bốn mùa thắt chặt một lần Xuân
Trăm tuổi đời, Xuân đến được bao lần,
Sao chẳng hưởng, chẳng chơi cho thỏa chí?
Hãy dứt bỏ cảnh chợ người dâu bể.
Mặc thói đời, mặc cuộc thế vần xoay.
Cùng nàng Xuân chuốc cạn chén men cay.
Cho ngất ngưởng quên tháng ngày vất vả.
Hãy sống động kẻo tình đời băng giá.
Lắng tâm hồn nghe gió hát, chim ca.
Đón chào Xuân thinh sắc cũng chan hòa...

Dù cuộc sống lắm bôn ba vất vả.
Một lần Xuân xuất thế đủ an bình.
Chơi Xuân chơi phải hết mình.

NHỮNG CA KHÚC NHAC VÀNG HAY NHẤT VỀ MÙA XUÂN

NHỮNG CA KHÚC NHẠC VÀNG HAY NHẤT VỀ MÙA XUÂN

 

Chủ Nhật, 24 tháng 1, 2016

MỘT THOÁNG SÀI GÒN/ NHỚ SÀI GÒN

MỘT THOÁNG SÀI GÒN/NHỚ SÀI GÒN
Vũ Uyên Giang

Tôi như nhiều người không sinh ra tại Sài Gòn nhưng suốt học trình từ tiểu học lên đại học được sống với thủ đô của miền Nam,mà qua tên gọi mỹ miều là “Hòn Ngọc viễn Đông”. Tôi suy tư về nguồn gốc các danh từ Sài Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông.
Theo sự truy nguyên, Sài Gòn thuở ban đầu là đất của người Khờ-me, là một làng đánh cá có tên đầu tiên là Prey Nokor mà Prey là thánh thần (dieu, god) và Nokor là thành phố hay đô thị (la ville, town, city) mang ý nghĩa là “thành phố thánh thần”.
Năm 1862, Việt Nam là thuộc địa của Pháp, người Pháp đặt tên chính thức là Saigon. Lấy theo cách giải thích vì sao người Pháp gọi là “Saigon” do theo âm ngữ của người Tàu (Thầy Ngòn, Xi Coón) hay Miên ngữ “Prey Nokor”. Từ đó, Saigon được Việt hóa là Sài Gòn.
Vì là thuộc địa của Pháp, thành phố được Pháp xây dựng rất tối tân, mới lạ, được xem là bậc nhất của vùng Đông Nam Á vào thời bấy giờ nên Pháp xem đó là Hòn Ngọc Viễn Đông (la Perle de l’Extrême-Orient, the Pearl of the Far East) hay theo sự ví von của người Pháp là Paris Phương Đông (Paris de l’Orient, Paris in the Orient) để ám chỉ là một thành phố giàu sang, lịch lãm của Pháp ở vùng Đông Nam Á.
Giả thuyết khác như theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quý Đôn viết năm 1776 thì năm 1674 Thống suất Nguyễn Dương Lâm vâng lệnh chúa Nguyễn đánh Cao Miên và phá vỡ “Lũy Sài Gòn” (theo Hán Nho viết là “Sài Côn”). Đây là lần đầu tiên chữ “Sài Gòn” xuất hiện trong tài liệu Việt Nam. Vì thiếu chữ viết nên chữ Hán – “Côn” – được dùng thế cho “Gòn”. Như vậy, ngay từ năm 1674 đã có địa danh Sài Gòn chứ không phải đợi đến năm 1778 khi người Tàu ở Cù Lao Phố bị quân Tây Sơn tiêu diệt rồi chạy xuống lập nên Thầy Ngòn tức Đề Ngạn,hay Xi Coón tức Tây Cống.
Dù sao thì Sài Gòn và Hòn Ngọc viễn Đông vẫn là một nơi quyến rũ, ấp ủ con tim bao thế hệ dù là gốc Âu hay Á. Trước khi tôi rời Sài Gòn vì biến cố chính trị 1975, những kỷ niệm lưu luyến với Sài Gòn hay Hòn Ngọc viễn Đông có nhiều lắm. Thời sinh viên thuở ấy sao mà đẹp đẽ trong ngắn ngủi, thời gian trôi qua như cái chớp mắt mà nay đã gần 4 thập niên ly hương, nhìn lại thấy mình không còn trẻ của lứa tuổi hai mươi của Sài Gòn mộng mơ, không còn nữa kỷ niệm đêm đêm tản bộ hóng mát dọc theo bờ sông Sài Gòn, hướng mắt về mái nhà lồng bên kia là Thủ Thiêm từ bến đò, bến bắc, gió thổi mát rượi từ mé sông, không còn nữa kỷ niệm Sài Gòn mưa lãng mạn ta phải luồn lách những vũng nước không tên trong cái giá lạnh khi lượn xe gắn máy chạy trong cơn mưa rào xối xả từ trời cao mà nước mưa bắn văng tung tóe, Sài Gòn cũng đã chìm khuất vào dĩ vãng xa xôi rồi khi kỷ niệm trở về, chỉ còn lại những nỗi nhớ đáng yêu bằng nước mắt ấm đầy ắp những lưu luyến yêu thương trong tâm tưởng, đôi lúc âm thầm trở về, cơ hồ như Sài Gòn đã sống dậy mãnh liệt trong tiềm thức cũ, mãi mãi theo ta những nhờ nhung không nguôi như bài ca:
“Sài gòn bây giờ trời mưa hay nắng?
Tà áo em bay theo giọt nắng vàng
Con đường ta đi giòng sông kỷ niệm
Nỗi nhớ trong em nỗi nhớ dịu dàng

Sài gòn bây giờ mưa giăng ngập lối
Hai đứa bên nhau âu yếm không rời
Đôi mắt yêu thương làn môi chờ đợi
Từng đợt mưa rơi.. bối rối bồi hồi

Sài gòn bây giờ lòng ai vương vấn
Mai anh đi rồi còn nhớ em không?
Đôi mắt nai tơ buồn xa vời vợi
Cơn gió vô tình đuổi lá vàng rơi

Sài gòn bây giờ có buồn không em?
Mưa vẫn rơi rơi.. từng giọt êm êm
Suối tóc thơm bay hương tình dịu nhẹ
Ngây ngất dạt dào con phố về đêm”
(Sài Gòn Niềm Thương Nỗi Nhớ
Tác Giả: Võ Tá Hân, Trần Ngọc)
Sài Gòn gắn bó với tôi bắt đầu bằng những ngày thơ ngây, thành phố như một chốn phồn hoa đô hội, người ta có thể bị choáng ngợp với một đô thị mang dáng vẻ tây phương như người con gái kiều diễm, kiêu sa, đài các rồi cũng ở một góc nào đó, Sài Gòn ủ dột của phố đêm, lầy lội của xóm nghèo, trong nét bình dân của tiếng rao hàng, những con kinh nước đen,…
Nhiều người sống với Sài Gòn dù mưa hay nắng, ban ngày hay ban đêm, bận rộn tất bật hay nhàn rỗi rong ruổi với phố xá của nó. Thưởng thức những món ngon mà cả nhóm bạn tôi khoái khẩu nào là Mì Cây Nhãn, Mì Chú Hỏa, mì La Cay Nguyễn Tri Phương, hủ tiếu gà cá chợ cũ, hủ tiếu saté Lệ Thanh Chợ Lớn. Lề đường Sàigòn xưa có hàng me Nguyễn Du, có hàng sao cao vút khúc Võ Trường Toản, Trưng Vương. Tôi nhớ rõ có những hàng phượng vĩ và hoàng điệp trong sân trường Petrus Ký, Sài Gòn có trường Gia Long với món bò bía, xe đậu xanh đậu đỏ, có trường Luật Khoa trên đường Duy Tân với xe nước dừa uống môi em ngọt, có trường Dược khoa, Văn khoa trên đường Cường Để chạy thẳng xuống bờ sông Sài Gòn có Bến Bạch Đằng,… Sài Gòn có những quán kem, quán cà-fé, quán ăn vỉa hè,… Những sinh hoạt bình dị có quán cơm Bà Cả Đọi, quán Bắc Bà Ba Bủn để thưởng thức những món Sài Gòn, sự khoái khẩu với hệ quả Pavlov cồn cào dạ dầy sau những buổi tan học ngày cũ bạn bè rủ nhau đi ăn hàng Sài Gòn. Tôi nhớ con hẽm kín đáo Casino Sài Gòn nào những bún chả, bánh cuốn Thanh Trì, bánh tôm Cổ Ngư; những gánh hàng rong, những xe bán thức ăn của khu Bàn Cờ, khu Nguyễn Thiện Thuật, Chợ Vườn Chuối, Chùa Kỳ Viên, Chợ Đũi,… xen kẻ trong trí nhớ có nhiều lưu niệm trong ký ức xưa, có những nhà hàng, những điểm hẹn hò như: Passage Eden, Casino Sài Gòn, Mini Rex, La Pagode, Pôle Nord, Givral, Brodard, khu thương xá Tax,… Nhắc đến Sài Gòn có những nơi như Continental, Caravelle, Majestic,… Lề đường Saigòn còn có những gánh hàng rong. Thương nhớ làm sao kỷ niệm Sài Gòn có nước mía Viễn Đông, có thịt phá lấu, có gỏi đu đủ gan cháy khô bò, có bánh bột chiên, có món bánh cay gần khu Chùa Chà Và mà nhà văn Thinh Quang nhắc tôi hôm nọ. Những thực khách của những nhà hàng sang trọng theo cung cách kiểu tây phương của Sài Gòn nhưng rồi chính họ cũng là những giới hâm mộ thường trực tại các quán cóc trên vỉa hè Sài Gòn. Đó là những nét đặc thù của Sài Gòn, của người Sài Gòn hay thuật ngữ phương tây “Saigonais” hoặc “Saigonese”.
Nhớ Sài Gòn, làm sao quên nỗi những góc phố, những con đường của nơi ấy nhỉ? Năm 1865, Phó đô đốc Pierre Paul Marie de la Grandière (1807–1876) đại diện cho chính quyền Pháp tiến hành việc đặt tên cho 26 con đường trên địa bàn của thành phố Sài Gòn mà trước đó chỉ được đánh số thứ tự. Trải qua hơn 300 năm xây dựng và phát triển, Sài Gòn đã có hơn 1.500 con đường lớn, nhỏ và từ lâu các tên đường thay đổi do yếu tố chính trị. Thời Pháp thuộc thì đường Tự Do xưa của ta là đường Catinat rồi Pháp đặt tên đường Charner mà ta cho tên đường Nguyễn Huệ, Pháp đặt tên đường Mac Mahon mà ta là Công Lý và đường Bonard là Lê Lợi, đường Mossard là đường Nguyễn Du, đường mang tên Phó đô đốc HQ Pháp De La Grandière mà ta thay bằng tên vua ta đường Gia Long, đường Paul Blanchy mà tên ta đặt là Hai Bà Trưng, đường Mayer ms2 ta đặt là tên vua ta đường Hiền Vương và đại lộ Boulevard de la Somme mà phe ta đặt tên vua là đại lộ Hàm Nghi, nhà tôi ở đường mang tên tây D’Espagne mà ta đặt tên vua là Lê Thánh Tôn…………….
                                                  La Pagode
Những khách sạn thời Pháp thuộc tọa lạc ngay trung tâm Sài Gòn đã là nhân chứng cho bao năm binh biến, vật đổi sao dời. Khách sạn Continental được các kiến trúc sư nổi tiếng của Pháp thiết kế và xây dựng vào năm 1880 và nay là khách sạn lâu đời nhất Việt Nam. Continental từng đón tiếp nhiều nhân vật nổi tiếng như nhà thơ Nobel của Ấn Độ là Rabindranath Tagore, văn hào Pháp André Malreaux là tác giả của La condition humaine (Thân phận con người 1933) sau làm Bộ trưởng Văn hóa Pháp (1959-1969), văn hào Anh Graham Greene (tác giả của sách bestseller “The Quiet American” – Người Mỹ Trầm Lặng), cựu tổng thống Pháp Jacques Chirac và nữ tài tử điện ảnh Catherine Deneuve (thủ diễn trong các phim đoạt giải điện ảnh Indochine, Le Dernier Métro, Belle de Jour),…
Quán Givral, nhà sách Xuân Thu… phố xưa như nỗi nhớ
của người Sài Gòn, hồn của người Sài Gòn.
Chủ nhân đầu tiên của Continental là Pierre Cazeau, nhà sản xuất vật liệu xây dựng, sau bán lại cho Công tước De Montpensier. Chủ sau là Mathieu Francini. Ngoài ra, Continental còn có tên là “Radio Catinat”, nơi mà giới báo chí truyền thông tụ hội, trao dổi, thu nhặt tin tức thời sự “nóng” nhất, sai có, đúng có.
Nhà hàng kỳ cựu sau Continental là Majestic, thành lập năm 1925, nằm ở góc đường Catinat và Luro (sau là Cường Để) nhìn ra bờ sông Sài Gòn, do một thương nhân người Tàu giàu có và nổi tiếng nhất nhì Sài Gòn thời bấy giờ là Hui Bon Hoa (tức chú Hỏa) xây dựng theo đồ án thiết kế của một kiến trúc sư người Pháp.
Suốt gần 90 năm tuổi của mình, Majestic đã đón tiếp nhiều nhân vật quốc tế hay chính khách: Tổng thống Pháp Mitterrand, Thái tử Nhật Akishino, Thủ tướng Lý Hiển Long của Singapore, Thái tử Đan Mạch Henrick, Thái tử Anh Andrew, công chúa Thái Lan Maha Chakri Sring Dhorn,…
Các quán cà phê như La Pagode là nơi hội tụ của giới thơ văn, báo chí Sài Gòn một thuở giống như tụ quán Caffe Trieste nằm trên Vallejo Street (góc đường Grant) hướng bắc của phố San Francisco mà chủ nhân là một người Ý di cư nhưng quán cà phê nảy là nơi mà giới tao nhân mặc khách, những nghệ sĩ lui tới gặp gỡ nhau, nò là phòng hội của những nhà văn Lawrence Ferlinghetti, Alan Watts, Jack Kerouac, Allen Ginsberg, Richard Brautigan, Bob Kaufman, Gregory Corso, Michael McClure, Kenneth Rexroth, Neeli Cherkovski,… nhà thơ nổi tiếng Jack Hirschman, nghệ sĩ Peter Le Blanc, Don Moses và nhiếp ảnh gia giải Pulitzer là Joe Rosenthal, rồi những Jimo Perini, Bill Cosby, Paul Kantner, Liam Mayclem, Joey Reynolds và Mal Sharpe,… Trieste còn là nơi thi sĩ gốc Nga giải Nobel văn chương Joseph Brodsky lui tới trau chuốt thơ của mình. Còn nữa. Rồi ở góc phòng còn phảng phất bóng dáng của nhà đạo diễn nổi danh Francis Ford Coppola ngồi đọc và đánh bóng kịch bản phim “The Godfather” những năm 70.
Paris có Café de Flore, ở ngay ngã Tư của Boulevard Saint-Germain và đường St. Benoit, nơi gặp gỡ ngày xưa của văn và triết gia như André Breton, Françoise Sagan, André Malraux, Francois Mauriac, Jean-Paul Sartre, Simone de Beauvoir, Albert Camus,…
Cái chung của La Pagode của Sài Gòn, Caffe Trieste của San Francisco hay Café de Flore của Paris là những địa điểm tụ họp của giới văn hoá nghệ thuật, những nơi có lịch sử của chính nó.
“Nắng SàiGòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng
Anh vẫn yêu màu áo ấy vô cùng…”
Sàigòn có thơ Nguyên Sa, có nhạc Ngô Thụy Miên, hỡi những ai đã từng đi dưới cơn nắng của Sài Gòn, bạn còn nhớ chứ?
Nhà thơ Vũ Uyên Giang cho bài thơ nhớ Sài Gòn xưa, Sài Gòn nhớ nắng, nhớ mưa:
“Nhớ quá Sàigòn của thuở xưa
Ta từ Bưu Điện bước ngang qua
Nhà thờ Đức Mẹ nằm im lặng
Con phố Hàn Thuyên nắng nhạt nhòa
Nhớ đến Sàigon một thuở xưa
Buổi chiều nhạt nắng lại rơi mưa
Gọi thầm khe khẽ tên ai đó
Đất khách trong lòng đang đổ mưa.”

Vũ Uyên Giang
Sài Gòn qua nỗi nhung nhớ của nhà văn Trần Mộng Tú:
“Âm thanh của những tiếng động hàng ngày như tiếng chuông nhà thờ buổi sáng, tiếng xe rồ của một chiếc xích lô máy, tiếng rao của người bán hàng rong, tiếng chuông leng keng của người bán cà rem, tiếng gọi nhau ơi ới trong những con hẻm, tiếng mua bán xôn xao khi đi qua cửa chợ, vẻ im ắng thơ mộng của một con đường vắng sau cơn mưa… làm lên một Sài Gòn bềnh bồng trong nỗi nhớ.
Sài Gòn mỗi tháng, mỗi năm, dần dần đổi khác. Chúng tôi lớn lên, đi qua thời kỳ tiểu học, vào trung học thì chiến tranh bắt đầu thấp thoáng sau cánh cửa nhà trường. Đã có những bạn trai thi rớt Tú Tài phải nhập ngũ, những giọt nước mắt đã rơi xuống sân trường. Sau đó, với ngày biểu tình, với đêm giới nghiêm, với vòng kẽm gai, với hỏa châu vụt bay lên, vụt rơi xuống, tắt nhanh như tương lai của cả một thế hệ lớn lên giữa chiến tranh.
Sài Gòn như một người tình đầu đời để cho ta bất cứ ở tuổi nào, bất cứ đi về đâu, khi ngồi nhớ lại, vẫn hiện ra như một vệt son còn chói đỏ. Sài Gòn như một mảnh trầm còn nguyên vẹn hương thơm, như một vết thương trên ngực chưa lành, đang chờ một nụ hôn dịu dàng đặt xuống."
                                         Thương xá Tax
Thi sĩ Phạm Sĩ Trung nhớ Sài Gòn:
“Sài Gòn ơi Sài Gòn
Những con đường thân quen
Hàng cây cao bóng mát
Tình yêu thật êm đềm

Sài Gòn ơi Sài Gòn
Nơi tôi đã lớn lên
Nhớ thương buồn vời vợi
Suốt đời chẳng sao quên”
Ca sĩ Quỳnh Giao hát bài “Nhớ Sài Gòn”, sáng tác của Phạm Anh Dũng:

Thứ Sáu, 22 tháng 1, 2016

Thứ Tư, 20 tháng 1, 2016

CHUYỆN BA NGÀY TẾT

CHUYỆN BA NGÀY TẾT
Thái Quốc Mưu

 Image result for cây nêu trang pháo bánh chưng xanh câu đối đỏ 
Do lãnh thổ gần kề đất nước khổng lồ Trung Hoa ở phía Bắc, thời trung cổ, dân tộc Việt Nam bị lệ thuộc quốc gia nầy hàng thiên niên kỷ, dù không bị đồng hóa nhưng chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Quốc nặng nề. 
Có những tục lệ, thờ cúng đối với người Trung Hoa có căn do, nguyên ủy song đối với dân tộc Việt Nam, chẳng những không có ý nghĩa gì mà còn ngược lại. Chẳng hạn người Trung Quốc tôn sùng, thờ cúng Quan Vân Trường tức Quan Vũ tức Quan Công chẳng phải tôn trọng vì khí tiết hay lòng trung thành, tài cán của nhân vật nầy. Việc thờ cúng Quan Công  chỉ là “ám hiệu nhận dạng” của một tổ chức Phản Thanh Phục Minh. Vua Càn Long biết được, ra lệnh cho mọi gia đình đều phải thờ Quan Công (để các chiến sĩ chống Thanh không biết nhà nào là đồng chí hay đồng đảng của mình). Từ đó, việc tôn thờ được dân gian thêm thắt: tiết liệt, anh hùng, thần bí rồi lan rộng khắp nơi. Dĩ nhiên điều đó cũng vượt biên giới Trung Hoa tràn sang lãnh thổ Việt Nam.
Thờ cúng anh hùng dân tộc là một điều đáng làm và nên làm nhưng vị được mọi người ngưỡng mộ tôn thờ phải là người có công lao với đất nước, dân tộc của mình chứ không nên tôn sùng, thờ cúng một nhân vật mà người đó chẳng đem ích lợi gì (đôi khi còn ngược lại) cho xứ sở chúng ta. Giả dụ, người Đức có thể tôn thờ Hitler là anh hùng dân tộc họ nhưng các quốc gia, dân tộc khác - nhất là người Do Thái - không thể thấy người Đức làm như thế rồi bắt chước làm theo.
Trong những ảnh hưởng từ nước láng giềng to lớn, có cái Tết là xâm nhập vào lòng dân tộc ta lâu đời nhất và tương đối chấp nhận được bởi Tết là ngày nghỉ sau một năm dài làm lụng vất vả. Nhưng ngày Tết đến với dân tộc Việt Nam không có thời gian nhất định và không có tính chất độc lập. Từ xa xưa, tổ tiên ta đã chạy theo cái Tết của người Trung Hoa tùy theo thời kỳ vua chúa ngự trị quốc gia khổng lồ nầy ấn định.
Thời Tam Hoàng, Ngũ Đế (1), người Trung Hoa đã biết ăn Tết nhưng không có ngày tháng Tết cố định. Đời Tam Vương (2), Nhà Hạ chuộng màu đen nên chọn ngày Tết vào tháng Dần (tháng Giêng). Nhà Tây Chu thích màu đỏ lại chọn Tết vào tháng Tý (tháng 11). Trong khi trước đó, đời Thương chuộng sắc trắng nên chọn Tết vào tháng Sửu (tháng 12). Sau khi Đức Khổng Tử ra đời, Nhà Đông Chu lấy tháng Dần làm ngày Tết cố định.  Đến lúc Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc, thống nhất Trung Quốc thì chọn tháng 10 (tháng Hợi) làm ngày Tết. Sang đời Hán Vũ Đế, ngày Tết được chọn vào tháng Dần (tháng Giêng) như đời Nhà Hạ.
Dường như từ đời Nhà Hán trở về sau, ngày đầu tháng Dần là ngày Tết cố định và lưu truyền cho đến ngày nay.
Buổi sáng sớm ngày đầu tháng gọi là Nguyên Đán. Ngày được chọn để ăn Tết nhằm ngày đầu của tháng Giêng (tháng Dần) nên được gọi là Tiết Nguyên Đán.
Theo Hán tự, “Nguyên” có nghĩa là đầu, khởi đầu, bắt đầu. “Đán” nghĩa là buổi sớm. Như vậy, Tiết Nguyên Đán có thể hiểu là “buổi sớm đầu năm mới” hay là “Ngày đầu năm mới”. Còn chữ  Tết hoặc là do âm chữ Tiết của Hán tự mà đọc trại ra hoặc là do tinh thần chống đồng hóa nên Tổ Tiên ta thay vì đọc Tiết thì đọc chệch ra thành Tết. Cũng giống như cùng một chữ nhưng âm Hán thì khác với âm Việt Nho, chẳng hạn như người Quảng Đông nói “xực phàl”, ta nói “thực phàn”, “cẩu” (chín) ta nói: “cửu”, “xập” (mười) ta nói: “thập”, “Tiết” Đoan Ngọ thành “Tết Đoan Ngọ”, “Tiết Trung Thu” thành “Tết Trung Thu”...
Nói đến Tết tức là nói đến những ngày đầu xuân tiết trời mát mẻ, hoa cỏ xinh tươi, việc làm nhàn nhã - vì đa số các dân tộc chịu ảnh hưởng ngày Tết của Trung Quốc đều sống về nghề nông, đến cuối đông việc ruộng nương, rẫy bái đều hoàn tất, cơm gạo đầy đủ... cần có thời gian nghỉ ngơi, vui chơi thoải mái.
Nói đến Tết là nói đến các thú vui đặc thù dân tộc, đến việc sắm Tết, ăn Tết, thăm viếng ông bà, cha mẹ, bà con, bằng hữu xa gần và vui chơi đây đó.
Image result for cây nêu trang pháo bánh chưng xanh câu đối đỏ
Đặc biệt, nói đến Tết Việt Nam là nói đến: 
“Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Nêu cao, tràng pháo, bánh chưng xanh”
(Tú Xương) 
Để chuẩn bị cho một cái Tết tươm tất hầu bỏ lại sau lưng một năm dài vất vả và với ước vọng một năm mới thành đạt, huy hoàng hơn, dân gian có thời gian chuẩn bị đón Tết khá dài. Tùy hoàn cảnh gia đình, những nhà dư giả thường chuẩn bị ăn Tết trước ngày đầu năm cả năm, sáu tháng, như việc “nuôi heo ăn Tết”. Đa số, chuẩn bị Tết trong thời gian cận Tết. Náo nhiệt, xôm trò nhất, bận rộn nhất là trong tháng Chạp.
Từ doanh thương ở thị thành đến đồng quê hẻo lánh, nơi đâu cũng toàn nói chuyện Tết: Mua hàng bán Tết, giã gạo ăn Tết, tát đìa (3) ăn Tết, xổ đập (4) ăn Tết, làm dưa chua, quết bánh phồng, làm mứt, gói bánh tét, bánh chưng... ăn Tết. Và còn sửa sang nhà cửa, bàn thờ, mua sắm hoa kiểng, áo quần mới... để đón Tết và ăn Tết. Quả thật “nhà nhà chuẩn bị Tết” để rồi “người người cùng ăn Tết”. 
Dường như quê hương ta, từ trước đến ngay, nông thôn là nơi còn duy trì, vương vấn tập tục Tết còn nhiều sắc thái đặc thù của dân tộc.
Vào ngày 23 tháng Chạp, nhà nhà đều đưa ông Táo về trời. Thần Táo tức vua Bếp, một nhân vật huyền thoại được Ngọc Hoàng Thượng Đế cử xuống trần gian ở khắp mọi nhà, có nhiệm vụ quan sát việc làm lành dữ của chủ nhà suốt tháng, quanh năm. Đến ngày 23 tháng Chạp, Thần Táo được đưa về Trời để báo cáo với Thiên Đình công đức và tội lỗi của gia chủ. Thông thường trong lễ đưa ông Táo về Trời có:                  
“Một bộ mão áo mừng Tết mới
Hai con cá chép cưỡi đường xa”
(không nhớ tên tác giả)
và không quên nhắn nhủ: 
“Điều hay xin chứ tâu lên nhé,
Chuyện dữ xin đừng giở giói ra.
Tính chủ thành tâm xin cố nhớ
Mong Ông ngoảnh lại thế gian nhờ”
(không nhớ tên tác giả và có thể sai vài chữ)
Trong những nhân vật huyền thoại, ngoại trừ “ông Địa”, Thần Bếp cũng là vua ăn hối lộ ít vị huyền thần nào sánh kịp. 
Với ông Địa thì “Vái ông Địa, cho con kiếm được... cây móc tai, con cúng ông nải chuối” hoặc “Ơn ngay ông Địa, cho con kiếm được cây trâm, con cúng ông nồi chè”...
Ông Địa ăn hối lộ đứng vào bậc nhất nhưng bị gạt cũng vào hàng thứ nhất vì khi mất mát, lúc cần chẳng ai tiếc “lời van vái” bao giờ, đến khi tìm được rồi thì còn nhớ ơn nghĩa làm chi - khi cần, lúc mất thì người ta cầu ông Địa, đến lúc tìm lại được nào mấy ai chịu đưa hối lộ cho ông? Cũng có những sự tráo trở rất buồn cười, khi mất mát thì hứa cúng nồi chè, con gà, con vịt khi tìm được thì kỳ kèo mặc cả: “Con hứa với ông cúng như vậy... nhưng bây giờ xin ông dùng trà bánh với con.” Lại cũng có: “Ối! quýnh quáng quá thì vái vậy, chớ thần thánh ai bắt bẻ mình làm gì...” Đúng là mồm mép dẻo dai! 
Với Thần Bếp, trong lễ tiễn đưa phải sắm đủ lễ vật, nếu không, trong bảy ngày ở Thiên Đình, vị thần đen đúa xấu xí nầy chỉ tâu lên Ngọc Hoàng những điều lầm lỗi của gia chủ ở thế gian và quên mất đi phần nhân đức. 
Trong các Huyền Thần như Thần Tài, ông Địa, Thành Hoàng, Thổ Thần... có thể còn được tin tưởng và kéo dài thêm một thời gian nữa. Nhưng đối với Thần Bếp (ông Táo) có lẽ không thọ (tồn tại) đến vài mươi năm nữa trong thế kỷ 21 nầy, có nghĩa là ông Táo, dù là Huyền Thần nhưng không tránh được luật đào thải bởi sự tiến hóa của nhân loại. 
Mấy mươi năm về trước, từ thành thị đến thôn quê, nhà nhà đều có ông Táo, hiện nay ở thành thị và ngay cả những vùng thôn quê tiến bộ thì “Thần Gas”, “thần Điện” đã tống cổ Thần Táo ra ngồi gốc tre, bụi rậm. 
Ôi! cái luật đào thải sao mà ghê gớm lắm vậy! Đến cả huyền thần cũng không thoát được. Huyền thần còn thế huống chi con người... 
Thời gian sau khi đưa ông Táo về trời là những ngày áp Tết, thường thì để sửa sang mộ phần ông bà cha mẹ cho vén khéo, sạch sẽ. Đêm đến thì nấu bánh tét, gói bánh chưng.
Ở thôn quê trong thời gian từ 23 đến 30 tháng chạp, đa số mọi nhà đều có dựng Cây Nêu đón Tết. 
“Cu kêu ba tiếng cu kêu
Mong cho Tết đến dựng Nêu ăn chè”
(Ca dao) 
“Nêu” có nghĩa cây cắm cao để làm dấu hiệu cho mọi người biết. “Cây Nêu Tết” là một cây tre hay trúc cao, dài, được trồng (chôn gốc) trước nhà, trên có treo một cái sàng (dùng để sàng lọc gạo và thóc sau khi xay lúa) hay vầng (dùng để sàng sau khi giả gạo để lọc tấm, cám) có cột ba dây cân bằng như cái dá của cái cân xách, trên để cau trầu, bùa chú, trù ếm ma quỷ. 
Thông thường, người ta dựng Nêu vào ngày ba mươi Tết hoặc trước đó vài hôm và hạ Nêu vào chiều mùng bảy Tết.
Chiều Ba mươi Tết, mọi nhà đều lo nấu nướng, bày cổ để cúng Tổ Tiên, rước Ông Bà về cùng ăn Tết. Phần nhiều, trong ngày Ba mươi Tết, những ai đi làm ăn xa đều phải tức tốc quay trở lại nhà để rước Ông Bà về vui Tết. Với những dòng tộc có Nhà Từ Đường đàng hoàng, đa số những người trong dòng tộc xa gần, đều quy tụ về đó hoặc nhà tộc trưởng để dự lễ rước Ông Bà. Phần đông mọi nhà đều tự làm Lễ Rước Ông Bà cho riêng gia đình mình. 
Lễ Rước Ông Bà là biểu tượng cho lòng hiếu thảo, nhung nhớ của con cháu đối với Tổ Tiên, Ông Bà. Do đó, thường được tổ chức rất trang nghiêm, trọng đại nhất trong ba ngày Tết. Đây là một tập tục nói lên tinh thần “Uống nước nhớ nguồn” rất đáng duy trì, tôn trọng.
Ngày Ba mươi Tết cũng là ngày sum họp, thanh toán nợ nần - đôi khi tha thứ, xóa bỏ cả ân oán hận thù - để hy vọng được một năm mới an lành, thanh thản, đủ đầy và hạnh phúc. 
Tối Ba mươi Tết gọi là đêm Trừ Tịch. “Trừ Tịch” phát xuất từ hai chữ “Tshoi Chịưch” của tiếng Quảng Đông và biến thành trại âm, có nghĩa: “Tshoi = Bỏ đi; Chịưch = đêm nầy”. Ta có thể hiểu “giã từ đêm cuối của năm cũ” hoặc là “Từ đêm nay, bỏ hết năm cũ”, mọi người đều thức chờ đợi đón Giao Thừa, thời điểm chuyển tiếp giữa năm cũ và năm mới. 
Đón Giao Thừa cũng là một tập tục và là một lễ nghi trong những ngày Tết nhất. Lễ đón Giao Thừa cũng như mọi lễ nghi khác đều chịu ảnh hưởng hoàn cảnh của mỗi gia đình nhưng tựu trung cũng để tế “Cựu Vương Hành Khiển” tức là vị thần thay thế Ngọc Hoàng Thượng Đế coi quản việc trần thế và vị Phán Quan - là thư lại cho Cựu Vương Hành Khiển - phụ trách việc nhật tu công đức và cả tội lỗi của mỗi con người trên dương thế. Cuối năm, vị Cựu Vương Hành Khiển về chầu Thượng Đế tấu trình sự việc trong một năm thuộc quyền quản trị của mình (Thượng Đế phân nhiệm còn dẫm chân lên nhau huống hồ con người. Đã có Thần Táo rồi mà còn bổ nhiệm thêm Cựu Vương Hành Khiển tấu trình. Đúng là “Ông Già” lẩm cẩm!) 
Theo huyền thuyết Trung Quốc, có tất cả 12 vị Hành Khiển và mỗi vị được phái xuống dương gian, thay mặt Ngọc Hoàng Thượng Đế quản trị trần thế một giáp (12 năm).
Trong phong tục Tết có tục “Chơi Câu Đối” là một thú chơi tao nhã của khách văn nhân. 
Nói đến Câu Đối là nói đến thể văn có hai câu trên, dưới và có số lượng chữ bằng nhau - trong văn học gọi là hai vế, câu trên gọi là xướng, câu dưới gọi là đối (hay họa). Đặc trưng của hai câu trên, dưới ở điểm: các thanh bình, thanh trắc và ý nghĩa giữa mỗi chữ theo thứ tự trong hai câu đối phải đối nghịch nhau. Với ý nghĩa đó, lẽ ra câu đối phải được một người ra câu xướng và một người khác ra câu đối (họa) lại nhưng thông thường, cả hai câu xướng, đối trong Câu Đối Tết đều do một người làm. 
Người ta dùng Câu Đối để treo, dán trên hai bên bàn thờ gia tiên, lên cột, hai bên cổng hoặc hai cây cột trước cửa nhà tùy theo ý nghĩa của câu đối như thế nào. 
Đặc biệt những câu đối Tết đều được viết trên giấy Hồng đơn (giấy thô có một mặt đỏ, một mặt trắng) và bằng bút lông, mực Tàu. Viết theo thể dọc từ trên xuống dưới. Nhiều câu đối được các cụ Nho học viết bằng Hán tự hoặc bằng chữ Quốc Ngữ với âm Nho Việt. Ví dụ:
“Hiếu tử từ tôn vạn đại như kiến
Tổ tông công đức bách thế bất thiên”
(Con hiếu cháu hiền nghìn năm còn sáng tỏ.
Công ơn Tiên Tổ muôn kiếp chẳng mờ phai)
(Thái Quốc Mưu, lược dịch) 
“Sơn thủy thanh cao xuân bất tận,
Thần Tiên lạc thú cảnh trường sinh”
(Non nước đẹp tươi xuân thắm mãi
Thần Tiên vui cảnh sống lâu dài”
(Thái Quốc Mưu, lược dịch) 
Nữ hạnh, nam tài gia vạn lộc
Huynh hòa, đệ thuận phúc trường xuân.
(Gái nết, trai tài nhà muôn của.
Anh hòa, em thảo phúc ngàn năm)
(Thái Quốc Mưu, lược dịch) 
Môn nghinh xuân hạ thu đông phúc
Bình an nhị tự trị thiên kim
(Cửa đón bốn mùa vui vạn phúc,
An bình hai chữ quý muôn vàng)
(Thái Quốc Mưu, lược dịch)
Sau nầy, khi nền nho học gần cáo chung, bậc thi nhân đổi ra làm câu đối thuần Việt: 
“Tối ba mươi, khép cánh càn khôn, ních chặt lại, kẻo ma vương đem quỷ đến.
Sáng mồng một, lỏng then tạo hóa, mở toang ra cho thiếu nữ rước xuân vào.”
Hồ Xuân Hương 
Năm mới nói đến câu đối Tết mà không nói đến tranh Tết lại là một khiếm khuyết lớn. 
Tám, chín mươi năm trước, do nền ấn loát Việt Nam còn thô thiển, mọi người thi nhau chọn tranh Đông Hồ sản xuất từ làng Đông Hồ (Hà Bắc) được yêu chuộng nhất, kế đó là tranh Nam Đàn (Nghệ An), tranh Hàng Trống (Hà Nội). Phần nhiều tranh Đông Hồ có nét vẽ đặc thù dân tộc nên rất được nhiều người mến mộ. Tranh Đông Hồ được in trên khuôn gỗ và bằng loại giấy đặc biệt, gọi là giấy điệp. Tranh Tết rất đa dạng đề tài: Cầu Lộc, Nhị Bình (công, cá), Tứ Bình (Mai, Lan, Cúc, Trúc, tượng trưng cho bốn mùa) hoặc bốn tố nữ: chơi đàn, thổi sáo, gõ phách, ca múa. Tiến tài, tiến lộc, tranh gà, hứng dừa, Đám cưới chuột, đàn lợn, đàn gà, phú quý, (đứa trẻ tóc trái đào ôm vịt), vinh hoa (trẻ ôm gà trống), thất đồng (bảy đứa trẻ mụ mẫm).
Ý nghĩa của hình ảnh trong tranh: Quả đào tượng trưng thanh cao, sống lâu. Gà mái tượng trưng đông vui. Cóc tía, can đảm...
Về sau tranh Tàu in trên đá, màu sắc đẹp đẽ hơn nên có phần lấn áp tranh Đông Hồ. Tranh Tàu thường in theo nội dung các truyện cổ Tàu: Tây Du Ký, Đông Du, Tiết Nhơn Quý Chinh Đông, Thủy Hử, Phong Thần... và sơn thủy hoặc đề tài với nội dung trong bốn câu thơ: 
春夏秋冬

春遊芳草地
夏賞綠荷池
秋飲黃菊酒
冬吟白雪詩

Phiên Âm
Xuân du phương thảo địa
Hạ thưởng lục hà trì
Thu ẩm hoàng hoa tửu
Đông ngâm bạch tuyết thi
(Xuân, Hạ, Thu, Đông - Thôi Hiệu)
Hiện nay, trên đà phát triển chung, kỹ nghệ in ấn rất tối tân, những tranh in trên lịch với hình ảnh các nam nữ nghệ sĩ, tài tử, minh tinh điện ảnh hoặc các thiếu nữ đẹp ở các quốc gia khác nhau gần như... xóa sổ tranh Đông Hồ và tranh Tàu trong những ngày Tết. Đa số những tranh in trên lịch ngày nay, thường không có nội dung nói lên tinh thần Ngày Tết Dân Tộc, thậm chí có nhiều bức tranh thiếu nữ in trên lịch áo quần nghèo nàn, chỉ đáng treo trong phòng the dành riêng cho đôi vợ chồng ngắm, thưởng thức để tăng thêm nồng độ yêu đương, thế nhưng cũng được phơi bày nơi phòng khách, phòng gia đình, điều đó thật... đáng buồn làm sao!
Sáng mồng một Tết, mọi nhà đều kiêng kỵ việc quét nhà vì ngại Thần Của (thần coi việc tiền của) sẽ ra đi trong năm mới. Ngoài ra, còn cấm cãi cọ, ồn ào, vay mượn, đánh đập thú vật, làm vỡ đồ đạc, đòi nợ, mượn hay cho mượn đồ vật, ngồi ngay cửa (ý cản trở điều may mắn trong năm), vỗ vai nhau (làm cho xui xẻo, kém duyên), than khóc, người có tang vào nhà, kiêng giờ xấu, đèn hết dầu (cạn kiệt)... 
Tóm lại, mọi điều đều phải được tốt đẹp với ước vọng một năm mới mọi sự việc được phát đạt, tốt lành. Trong gia đình vào buổi sáng, từ gia trưởng trở xuống, mọi người đều đến làm lễ Mừng Tuổi Ông Bà trước bàn thờ Gia Tiên, tiếp theo con cái Mừng Tuổi Cha Mẹ, ưu tiên theo thứ tự vai vế. Sau đó là phần lì xì. 
“Lì Xì” hoàn toàn là âm ngữ của tiếng Quảng Đông, có nghĩa: “Lì = Lợi; Xì = Là”, ta có thể giải nghĩa theo tiếng Việt trong ngày Xuân: “Đây là lợi (hay lộc) đầu năm”. Vì là “Lợi Đầu Năm” nên “Lì Xì” không giới hạn chỉ ở người lớn trao cho người nhỏ mà cả người nhỏ cũng nên trao cho người lớn. Dường như chúng ta tiếp nhận tục lệ nầy chỉ theo một chiều “nước từ trên chảy xuống.” 
Mồng một Tết được xem là một ngày kiêng kỵ đủ thứ. Vì thế, ít có người nào đi đến nhà người khác vì sợ bị gia chủ kiêng kỵ, tránh trong năm mới ai đó bị xui xẻo điều gì sẽ đổ vạ cho mình. Chỉ có những người được gia chủ mời, sau khi xem sách vở, thấy tuổi tác, số mạng, sự thuận thảo vợ chồng... thích hợp và trong hy vọng qua người khách ấy đến nhà vào ngày đầu năm mới, mình sẽ tiến triển hơn - thì nhân vật ấy mới “hiên ngang” đến thăm gia chủ. Tục ấy gọi là “Xông Đất”. Kỳ dư, mọi người thường rủ nhau đi Chùa Lễ Phật, Hái Lộc Đầu Năm. 
Hái Lộc Đầu Năm là đến Chùa bẻ một cành cây non tơ ở quanh rào, giậu nhà chùa, đem vào chùa nhang đèn bái kiến Phật Tổ; sau đó, đem về nhà cắm lên bàn thờ cho đến héo khô. Tục nầy mang ý nghĩa may mắn quanh năm.
Trong thời gian Lễ Phật, người ta còn có xin Xâm. “Xâm” hay “Xăm” là một cây thẻ, thường làm bằng tre, trên có ghi chữ số cố định, khởi đầu từ cây mang số “Một” đến... có khi đến cây mang số... “Một ngàn”. Những cây thẻ ấy được đựng trong một cái ống (gọi là ống xâm hay ống xăm) lớn, nhỏ tùy theo số lượng thẻ nhiều hay ít. 
Người xin Xâm đến quỳ trước bàn Phật, hai tay cầm ống xâm đưa lên ngay giữa trán, khấn khứa một hồi, sau đó quỳ xuống xốc ống xâm cho đến khi nào có một cây xâm rớt ra ngoài mới thôi. Người xin xem cây xâm mang số mấy, đến nơi để sách giải hoặc những bài giải đã được chiết ra từ sách giải xâm và in sẵn từng tờ, chọn một bài có mang số cùng với cây xâm rớt ra, đọc để đoán vận mệnh của mình trong năm.
Bài giải xâm, thường có nhiều hạng: Thượng Thượng, Thượng, Trung Thượng, Hạ Thượng; Trung, Thượng Trung, Hạ Trung; Hạ, Hạ Trung, Hạ Hạ...
Tất nhiên người nhận được số xâm có bài giảng Thượng Thượng thi vui mừng không thể tả, còn những người nhận được những bài giải mang Hạ Hạ thì lại lo buồn không kém. Thường những bài giải phần đầu là viết Việt Ngữ theo âm Nho bằng bốn hay tám câu thơ; đoạn dưới là phần giảng giải bằng âm Việt để mọi người cùng biết. Nhưng “Thiên Cơ Huyền Bí”, đa số người đọc không hiểu nghĩa một cách đầy đủ, rõ ràng; từ đó, sản sinh ra những ông Thầy giải, đoán xâm.
Xin xâm ở Chùa không mất tiền thù lao cho Phật Tổ nhưng thường thì dâng lễ nhang đèn hay hoa quả cho nhà Chùa. Nếu bạn đến xin xâm mà không có cúng kiến nhang đèn hay hoa quả thì sẽ nhìn được những khuôn mặt sư, ni không mấy gì vui tươi trong khi bạn từ giả ra về. Đó là lẽ tất nhiên, bình thường như tất cả những sự bình thường vì thực tế vẫn là: “Đồng tiền nối liền... khắp nơi”   
Khi ở Chùa về, người ta thường mang theo một cây nhang lớn, cỡ bằng ngón tay trỏ hoặc to hơn, gọi là nhang đại, đến nhà cắm cây nhang đó lên bàn thờ Ông Bà, cây nhang đại ấy phút chốc hóa thân thành “Hương Lộc” tượng trưng cho sự phát đạt trong năm. Người có máu hài hước gọi cây nhang ấy là “Nhang Chùa”, hàm ý chế diễu “Của Chùa”, ai muốn lấy thì lấy. Quả là vừa có nụ cười hóm hỉnh vừa là lời châm chọc cay độc. 
Đa số trong ngày mồng một Tết, mọi người đều quây quần vui vẻ trong nhà. Nếu vì lý do chẳng đặng đừng, phải đi ra ngoài, người ta phải chọn, giờ tốt và hướng đi cho hợp với tuổi tác, năm sinh, vận mệnh của mình để xuất hành.
Xuất hành rất kỵ gặp mặt đàn bà, nhất là phụ nữ có thai vì quan niệm mê tín cho rằng đó là điều xui xẻo trọn năm. Với quan niệm ấy nên đa số người phụ nữ, nhất là thai phụ trong tinh thần “bình an, tốt lành cho người khác”, đều tránh ra khỏi nhà trong ngày mồng Một Tết. 
Sang Mồng Hai Tết, mọi người đều áo quần tươm tất ra khỏi nhà đi viếng thăm, chúc xuân, mừng tuổi bà con, láng giềng, bằng hữu hoặc tham dự các trò chơi xuân ở chợ, ở đình làng qua nhiều hình thức vui xuân: Đánh đu, đánh cờ người, hát bội, cờ bạc... 
Đánh đu là một thú vui xuân lâu đời của nam nữ trong ba ngày Tết. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương để lại cho đời bài thơ Đánh Đu, tả cái thú chơi nầy vừa thực vừa hư, vừa thanh vừa tục: “ai muốn nghĩ sao thì nghĩ”: 
"Bốn cột khen ai khéo khéo trồng,
Người thì lên đánh, kẻ ngồi trông.
Trai đu gối hạc, khom khom cật,
Gái uốn lưng cong, ngửa ngửa lòng.
Bốn mảnh quần hồng bay phất phới,
Hai hàng chân ngọc duỗi song song.
Chơi xuân có biết xuân chân tá?
Cột nhổ đi rồi, lỗ bỏ không!"
Câu cuối của bài thơ có thể làm cho kẻ có tư tưởng bệnh hoạn ở những nhà đạo đức giả rất khó chịu. 
Trước kia, ngày Tết kéo dài đến ngày mồng bảy tháng Giêng; sau đó, mới hạ Nêu và cúng Tất gọi là lễ Khai Hạ. Cúng Tất là bữa cúng được coi là “bữa tiệc cuối cùng chấm dứt thời gian nghỉ, vui Tết”. Tuy nhiên, đó chỉ là tập tục, thực ra ngày “Tết” kéo dài đến hết tháng Giêng: 
“Tháng Giêng là tháng ăn chơi”
Sang tháng hai mọi người khởi đầu bắt tay vào việc cho một năm mới làm lụng vất vả.
Trên đây là một vài hình ảnh của tập tục Tết ở quê nhà. Còn thành phần lưu vong nơi đất khách, dường như tập tục Tết ở quê hương đã xóa mờ theo năm tháng bởi vì “Nhập Gia tùy tục, nhập giang tùy khúc”. Ở các Quốc gia Âu, Mỹ có người Việt định cư đều ăn Tết và nghỉ Tết theo Dương Lịch nên những thành phần người Mỹ gốc Á Châu - trong đó có Việt Nam - đều bị chi phối bởi cái Tết tuy không phải là xa lạ (trước kia chúng ta vẫn có ngày nghỉ Tết Dương Lịch) nhưng quả thật rất mới mẻ trong tinh thần của tất cả những người chịu ảnh hưởng của cái Tết theo Âm Lịch gần suốt cả cuộc đời, đang nương nhờ nơi đất khách.
Ở quê người, những người ly hương đã được ăn Tết và được nghỉ ngày đầu năm Dương Lịch nên vì sự sinh sống, không ai dám xin nghỉ làm việc đôi ba ngày để đón mừng và vui hưởng cái Tết truyền thống của Dân Tộc. Ví dầu có nghỉ cũng chẳng... vui vẻ gì lại còn bị... mất thu nhập, thôi thì cứ ăn Tết, vui Tết trong tâm tưởng cũng đủ... buồn. 
Vào dịp Tết đến, hầu hết ở những nơi có cộng đồng người Việt, quý vị trong Ban Đại Diện Cộng Đồng Người Việt ở các nước đều có tổ chức vui xuân qua hình thức Hội Xuân Dân Tộc. Có những Ban Chấp Hành đứng ra tổ chức Hội Xuân với tấm lòng cao cả, thật sự vì muốn cho đồng hương tìm lại dư vị ngày Tết quê hương trên đất khách, tạo cơ hội cho đồng bào gặp gỡ, vui chơi, giữ gìn phong tục, tập quán dân tộc và gây quỹ cho công việc điều hành...
Song song với việc làm tốt đẹp ấy, tiếc thay cũng có những Ban Chấp Hành Cộng Đồng ở một vài nơi lợi dụng danh nghĩa cũng tổ chức Hội Xuân với mục đích thủ lợi riêng tư, với ý đồ đạt mục tiêu bất chánh. Điều đó làm cho đồng hương, đồng bào vô cùng chán nản, sinh ra bất hợp tác trên nhiều phương diện và nhiều lãnh vực khác để lại cái hậu quả rã rời, xé lẻ cộng đồng người Việt tha hương - vốn ít ỏi - ra từng mảnh vụn... 
Mỗi độ xuân về là mỗi lần cộng vào quá khứ thời gian thêm một chữ số; trái lại, mỗi lần xuân đến là mỗi lần tình người ly xứ lại bị bào mòn như cồn cát bên dòng nước xoáy. Chỉ năm mười năm nữa thôi, thời gian sẽ cuốn trôi, xóa mất những gì thiêng liêng cao quý nhất của cháu con dòng Âu Lạc ở quê người. Còn chăng chỉ là sống mũi, mái tóc, màu da... trong khi tinh thần Dân Tộc đã lần hồi bị nhạt nhòa bản chất!
Ôi! cái họa lưu vong sao mà khủng khiếp quá!

Chú:
1. Tam Hoàng: Phục Hi, Thần Nông, Huỳnh Đế
2. Ngũ Đế: Thiếu Hiệu, Xuyên Húc, Đế Cốc, Đường Nghiêu, Ngu Thuấn
3. Đìa: ao được đào vét nơi chổ trũng ở đồng ruộng để mùa khô nước rút xuống cho tôm cá sống.

4. Đập: Được đắp bằng đất hoặc xây bằng đá, bê tông ngăn ngang một cửa biển, dòng sông, con kinh, rạch, suối với chức năng giữ nước lại. Xổ đập là làm vở đập cho nước tuôn ra hết để bắt cá tôm.