Thứ Sáu, 29 tháng 10, 2021

Thứ Tư, 27 tháng 10, 2021

NĂM NĂM VÀNG SON 1955-60 CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA THỜI SON TRẺ

NĂM NĂM VÀNG SON 1955-60 CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA THỜI SON TRẺ 

GS Nguyn tiến Hưng

 
Saigon
Nguồn hình ảnh, Saigon
Từ cao nguyên Tây Tạng, con sông Cửu Long cuồn cuộn chảy như thác lũ xuống phía nam qua tỉnh Vân Nam, tới Lào, Thái Lan, Kampuchia rồi Việt Nam trước khi ra Biển Đông. May cho Miền Nam là có hồ lớn Tonle Sap ở Campuchia hút đi một phần lớn lượng nước từ thượng nguồn cho nên từ đây dòng sông lại uốn khúc hiền hòa chảy vào Miền Nam.
Tới gần biên giới thì con sông chia ra làm 8 nhánh nhưng con số 9 được coi là may mắn cho nên phải tìm ra cho được một nhánh nữa, tuy là rất nhỏ (dài khoảng 10 dậm) để cộng lại thành ra 9 nhánh gọi là Cửu Long Giang.
Dòng sông Chín Con Rồng uốn mình tưới nước cho vùng đồng bằng Nam Bộ mầu mỡ, phì nhiêu trở thành vựa lúa của cả nước. Người nông dân nơi đây chỉ cần trồng mỗi năm một vụ là cũng đủ ăn, lại còn dư thừa để tiếp tế ra Miền Bắc và xuất cảng.

Khởi đầu gian khó

Nhưng trong mười năm chiến tranh loạn lạc, trên một phần ba đất trồng trọt đã bị bỏ hoang, nhường chỗ cho những bụi rậm và cỏ dại lan tràn. Một phần lớn hệ thống kênh rạch cũng bị khô cạn hay sình lầy. Hệ thống bơm nước, thoát nước cũng bị hư hại. Bởi vậy, sản xuất thóc gạo của Miền Nam trong mười năm trước 1955 đã bị giảm đi đáng kể.
Ngoài ra, các phương tiện giao thông như đường bộ, đường sắt, cầu cống và các cơ sở công kỹ nghệ như đường trắng, rượu bia, sợi bông cũng đều bị hư hại.
Cho nên vào năm 1955, khi "Một Quốc Gia Vừa Ra Đời" như báo chí Mỹ tuyên dương thì quốc gia ấy đã phải đối diện với bao nhiêu khó khăn khôn lường.
Saigon
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Ngân sách của Pháp để lại thì thật eo hẹp, kỹ sư, chuyên viên trong mọi lãnh vực đều hết sức hiếm hoi vì Pháp đã rút đi hầu hết, để lại một lỗ hổng lớn cho cả nển kinh tế lẫn hành chánh, giáo dục, y tế.
May mắn là trong năm năm đầu, từ mùa Thu 1955 tới mùa Thu 1960, Miền Nam có được năm năm vàng son, vừa có hòa bình lại được đồng minh Hoa kỳ hết lòng yểm trợ vật chất và kỹ thuật cho nên đã thu lượm được nhiều kết quả có thể nói là vượt bực.
Hồi tưởng lại thời gian ấy, nhiều độc giả chắc còn nhớ lại cái cảnh thanh bình khi các em học sinh mặc áo chemise trắng, quần xanh, các nữ sinh với những chiếc áo dài trắng tha thướt ngày ngày cắp sách đến trường. Cha mẹ, anh em thì lo công việc làm ăn. Giầu có thì chưa thấy nhưng hầu hết đã đủ ăn đủ mặc, xã hội trật tự, kỷ cương. Tuy dù có nhiều bất mãn khó tránh về chính trị, tôn giáo và xã hội nhưng tương đối thì ta phải công nhận rằng đây là thời gian hào quang nhất của Cộng Hòa Việt Nam.

Định cư gần một triệu người di cư từ Miền Bắc

Công việc đầu tiên và khẩn cấp nhất là phải định cư tới gần một triệu người, tương đương bằng 7% dân số Miền Bắc di cư vào Nam. Đoàn người này hoàn toàn 'tay trắng' - chúng tôi gọi là đoàn người 'bốn không': không nhà cửa, đất đai, tiền bạc, ngành nghề chuyên môn ngoài nghề nông.
Làm sao tìm được nơi ăn, chỗ ở, tạo dựng lại được công ăn việc làm, đào giếng nước, xây nhà thương, bệnh xá, trường học cho con em để đáp ứng nhu cầu? Ngoài việc hành chính, lại còn tìm đâu ra bác sĩ, y tá, thầy dạy cho con em?
Saigon
Nguồn hình ảnh, Getty Images
Sau này khi nói về thành công của Tổng thống Diệm về việc này, TT Kennedy viết cho ông nhân ngày Quốc Khánh 26/10/1961:
"Thưa Tổng thống,
Thành tích mà Ngài đã đạt được để đem lại niềm hy vọng mới, nơi cư trú và sự an ninh cho gần một triệu người lánh nạn cộng sản từ Miền Bắc đã nổi bật như một trong những nỗ lực đáng được tán dương nhất, và được điều hành tốt đẹp nhất trong thời hiện đại."

Tái thiết và phát triển nông nghiệp

Ưu tiên của công việc tái thiết và phát triển phải là nông nghiệp vì đại đa số nhân dân làm nghề nông. Đồng bằng Cửu Long là vựa lúa của cả nước nhưng sản xuất đã giảm đi đáng kể trong mười năm ly loạn.
Thời tiền chiến sản xuất lên tới 4,2 triệu tấn (1939), tới 1954 chỉ còn 2,5 triệu tấn. Cũng năm 1939, xuất cảng gạo là gần 2 triệu tấn, năm 1954 chỉ còn 520.000 tấn.
Tại vùng đồng bằng, trong tổng số là 7 triệu hecta đất trồng trọt có tới 2,5 triệu hecta (trên một phần ba) bị bỏ hoang. Lúa gạo là mạch máu của người dân cho nên công việc đầu tiên là phải đưa diện tích này vào canh tác.
Đây là một cố gắng vượt mức vì không những nó đòi hỏi phải tốn phí nhiều tiền bạc, công sức để sửa chữa lại hệ thống thủy lợi, vét nạo kênh rạch, lại còn làm sao xây dựng được quyền sở hữu đất đai và phương tiện sản xuất cho người nông dân.
Saigon
Nguồn hình ảnh, Getty Images

Cải cách điền địa: Khó khăn và giải pháp thành công

Người khôn của khó. Lo lắng chính của người dân là làm sao có được một mảnh đất để sinh sống. Nếu như mảnh đất ấy lại nằm gần sông nước thì là vàng.
'Đất Nước tôi': đất và nước. Chỉ có Việt Nam ta là dùng hai chữ đất và nước để chỉ quê hương, tổ quốc mình vì tấc đất là tấc vàng.
Các biện pháp cải cách ruộng đất bắt đầu vào năm 1955 với lệnh giới hạn địa tô (tiền thuê đất) và những biện pháp giúp cho tá điền (người nông dân thuê đất) có được sự yên tâm về quyền sử dụng đất.
Cải cách điền địa là công việc rất khó khăn của các chính phủ Á Châu nhưng ở Miền Nam là khó khăn nhất.
Làm sao mà lấy ruộng của người này chuyển cho người khác, nhất là khi đất canh tác lại tập trung vào một số rất nhỏ đại điền chủ? Họ là những người nắm thực quyền tại địa phương và gián tiếp tại đô thị. Ở đồng bằng sông Cửu Long, sự tập trung quyền sở hữu đất vào một số điền chủ là cao nhất ở vùng Đông Nam Á: chỉ có 2,5% điền chủ mà đã sở hữu tới một nửa diện tích canh tác, trung bình mỗi điền chủ có hơn 50 mẫu đất.
Trước tình huống ấy, TT Diệm đã phải đối mặt với một khủng hoảng xã hội rất có thể xẩy ra nếu như phát động mạnh chương trình cải cách điền địa. Nhưng TT Diệm vẫn đặt vấn đề này là ưu tiên số một của chính sách kinh tế, bắt đầu ngay từ 1955 bằng việc cải tổ quy chế tá điền.
Để hỗ trợ cho nông dân được yên tâm khi đi làm thuê, điền chủ phải ký hợp đồng với tá điền về điều kiện thuê đất: tiền thuê đất, thời hạn thuê, triển hạn khế ước, giảm tô trong trường hợp mất mùa.
Kết quả về nông nghiệp trong 5 năm rất khả quan: sản xuất cây lương thực tăng 32%, vượt qua tất cả mức sản xuất thời tiền chiến. Năm 1959, sản xuất gạo lên 5,3 triệu tấn, cao nhất trong lịch sử kinh tế Miền Nam cho tới thời điểm đó. Về xuất cảng: với tổng số là 340.000 tấn, năm 1960 cũng đánh dấu mức xuất cảng cao nhất.

Phát triển công kỹ nghệ và quy chế 'Quốc tịch Việt'

Dưới thời Pháp thuộc, kỹ nghệ và tài nguyên hầu như không được phát triển vì người Pháp chia ra hai vùng rõ rệt: Miền Bắc tập trung vào kỹ nghệ và khai thác hầm mỏ, Miền Nam thì căn bản là tập trung vào nông nghiệp, chỉ có một số sản phẩm tiêu thụ như nhà máy bia, diêm quẹt, thuốc lá, độc quyền thuốc phiện.
Bởi vậy từ 1955, Miền Nam bị cắt đứt tiếp liệu về than và khoáng sản. Chuyên viên kỹ thuật, kỹ sư lại thật ít ỏi vì Pháp đã rút đi hầu hết.
Từng bước, chính phủ bắt đầu khai thác tài nguyên với ba dự án chính: mỏ than Nông Sơn, thủy điện Đa Nhim, và phốt phát tại Hoàng Sa - Trường Sa. Lúc ấy thì chưa biết là có dự trữ dầu lửa lớn ở những quần đảo này.
Một chuyện ít người biết là việc đổi quốc tịch.
Nhiều người lên án hành động của TT Diệm là độc tài khi ông đưa ra quy định vào hè 1955 căn bản là nhắm vào các thương gia người Tầu (đa số sinh sống ở Chợ Lớn): nếu muốn làm ăn ở Việt Nam thì phải đổi ra quốc tịch Việt Nam.
Chúng tôi nghiên cứu thì mới hiểu lý do sâu xa là vì thời gian ấy, cơ sở kỹ nghệ ở Miền Nam căn bản là thuộc quyền sở hữu của người Pháp, cho nên khi TT Diệm quyết tâm đẩy Pháp ra khỏi Miền Nam thì ông tiên liệu trước và mở đường để người Tầu nhập quốc tịch Việt Nam với mục đích là để cho họ (vì có nhiều vốn liếng) sẽ có thể mua lại những cơ sở kỹ nghệ của người Pháp.
Một kích thích nổi bật khác về kinh tế là chính sách cởi mở, ưu đãi đối với các nhà đầu tư ngoại quốc: bảo đảm về chiến tranh, cam kết không tịch thu hay quốc hữu hóa tài sản của người ngoại quốc, ưu đãi về thuế má và cho phép chuyển tiền lời ra ngoại quốc.

Hạ tầng cơ sở

Tái thiết mạng lưới giao thông đã bị hư hại trong thời chiến và xây dựng thêm nữa là đòi hỏi tiên quyết cho việc phát triển kinh tế và xã hội.
Tới năm 1960, hệ thống đường bộ, đường sắt, đường thủy và các tuyến hàng không đã được cải thiện canh tân và mở rộng đáng kể. Hệ thống vận chuyển hiện đại bao gồm đường sắt, một mạng lưới các đường quốc lộ, liên tỉnh lộ, hương lộ, đường thủy và đường hàng không.
Đường bộ: trong khoảng 9.000 dặm đường, có hơn 2.000 dặm là bê tông nhựa; 3.000 dặm đường có cán đá, và khoảng 4.000 dặm là đường hương lộ.
Đường sắt: năm 1955 giao thông đường sắt cũng được sửa chữa và canh tân. Tới 1959 toàn hệ thống bao gồm 870 dặm, gồm một tuyến đường chính chạy từ Sàigòn đến Đông Hà, nối kết toàn bộ các tỉnh dọc miền duyên hải (nhiều khúc bị cắt đứt trong 12 năm chiến tranh).
Một chi nhánh đường sắt (có móc để leo đồi) đi từ Phan Rang lên Đà Lạt, và một chặng nối với mỏ than Nông Sơn. Một khúc ngắn về phía đông bắc, đi từ Sàigòn tới Lộc Ninh.
Hàng không: hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam - Air Vietnam - được thành lập lúc đầu để bay trong nước. Ngoài phi trường Tân Sơn Nhất, các phi trường được sửa chữa lại và xây dựng thêm gồm Huế, Đà Nẵng, Nha trang, Qui Nhơn, Biên Hòa, Đà Lạt, Ban mê Thuột, Pleiku, Hải Ninh, Cần Thơ, Phú quốc.
Từ nội địa, Air Vietnam bắt đầu bay tới Phnom Penh, Siem Reap, Bangkok, Vientianne và Savannakhet. Đường quốc tế phần lớn được đảm nhiệm bởi các hãng Air France, Pan American, World Airways, British Airways, Royal Dutch, Cathay Pacific và Thai Airways.

Ngân hàng và tiền tệ

Thiết lập được một ngân hàng trung ương và một hệ thống ngân hàng thương mại để thay thế cho Banque de L'Indochine và các ngân hàng thương mại Pháp ở Sài Gòn là một thành quả lớn của thời đệ Nhất Cộng Hòa.
Ngay từ tháng 1/1955, Ngân Hàng Quốc Gia Việt Nam được thành lập để phát hành đồng tiền Việt Nam và thực hiện các nghiệp vụ của một ngân hàng trung ương tân tiến.

Giáo dục và đào tạo


Nguồn hình ảnh, Getty Images
Xét đến cùng, con người vẫn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển kinh tế lâu dài. Trong thời kỳ 1955-1960, Miền Nam đã phát triển giáo dục rất nhanh.
Tiểu học: 1960, đã có tới 4.266 trường tiểu học công và 325 trường tiểu học tư thục. Tổng số học trò lên tới gần 1.200.000.
Trung học: các trường trung học công lập tăng từ 29 lên 101 trường. Nguyên trường Gia Long: số học sinh đã tăng từ 1.200 lên tới 5.000.
Đại học: trước năm 1954, Miền Nam không có đại học. Muốn học cử nhân phải ra Hà Nội. Năm 1955, chính thức thành lập đại học Sài Gòn, rồi tới Đại học Huế, Đà Lạt. Tới năm 1962 tổng số sinh viên lên tới 12.000.
Xem như vậy, thành quả của "Năm Năm Vàng Son 1955-1960" là thời gian quý hóa nhất của lịch sử Cộng Hòa Việt Nam.
Ngày Quốc Khánh 26/10/1960 Tổng thống Eisenhower viết cho TT Diệm:
"Kính thưa Tổng Thống,
Trong năm năm ngắn ngủi kể từ khi thành lập nước Cộng hòa, nhân dân Miền Nam đã phát triển đất nước của mình trong hầu hết các lĩnh vực. Tôi đặc biệt ấn tượng bởi một thí dụ. Tôi được thông báo rằng năm ngoái hơn 1.200.000 trẻ em Việt Nam đã có thể đi học trường tiểu học, như vậy là nhiều hơn gấp ba lần so với năm năm trước đó. Điều này chắc chắn là một yếu tố hết sức thuận lợi cho tương lai của Việt Nam. Đồng thời khả năng của Việt Nam để tự bảo vệ chống lại cộng sản đã lớn mạnh một cách không thể đo lường được kể từ khi họ tranh đấu hữu hiệu để trở thành một nước Cộng Hòa độc lập."
Hòa bình là một điều kiện tiên quyết cho xây dựng và phát triển.
Nhân dân Miền Nam đã có được năm năm vàng son để làm ăn, sinh sống trong hoàn cảnh tương đối là thanh bình. Tuy còn nghèo nhưng mỗi ngày lại thêm một bước tiến.
 Saigon
Nguồn hình ảnh, Forum Trung Tam Asia
Bao nhiêu độc giả cao niên còn nhớ lại những kỷ niệm êm đềm về thời gian ấy. Thí dụ bạn có thể đi bất cứ nơi nào một cách tự do từ Cà Mau ra tới tận Đông Hà. Mờ sáng lên xe buýt ra Vũng Tầu tắm biển hay buổi chiều đến ga xe lửa gần chợ Bến Thành mua vé đi Đà Lạt.
Chỉ trong chốc lát, con tầu bắt đầu phun khói, còi tầu rít lên trước khi khởi hành. Khi mặt trời hé rạng thì tầu chạy ngang bờ biển cát trắng Phan Rang, rẽ trái rồi ỳ ạch leo tuyến đường sắt có móc để trèo dốc lên Đà Lạt. Cái thú vui khi rời ga Đà Lạt (đẹp nhất Đông Nam Á) để mau tới "Café Tùng" hay "Phở Bằng" thưởng thức một ly cà phê sữa nóng thì khó có thể diễn tả được.
Với sự thông minh, cần cù của người dân Việt thì chỉ cần có hòa bình là tiến bộ trông thấy. Người dân lam lũ vất vả nhưng luôn vui với cuộc sống. Người nông phu không quản ngại thức khuya, dậy sớm để cầy sâu cuốc bẫm, chờ đợi cho tới ngày lúa vàng.
Tâm tư ấy luôn được phản ảnh trong thơ văn, âm nhạc Miền Nam trong thời gian này. Và khi thanh bình, con người lại đối xử với nhau cho hài hòa thì mọi việc - dù là tát cạn cả Biển Đông - cũng đều có thể ước mơ.
Tuy các kết quả phát triển kinh tế xã hội thời đó thật là nhỏ nhoi theo tiêu chuẩn ngày nay, nhưng là rất đáng kể so với các nước láng giềng lúc ấy như ngay cả Nam Hàn dưới thời Tổng thống Lý Thừa Vãn.
Miền Nam thực sự đã đặt được những viên gạch đầu tiên trong các năm 1955-1960 cho mô hình phát triển sau này của Nam Hàn dưới thời Tổng thống Phác Chính Hy. Xây dựng và phát triển trong hòa bình đã đưa Miền Nam tới chỗ vươn lên - kinh tế học gọi là điểm cất cánh (take-offĐ để trở thành một cường quốc tại Đông Nam Á.
Buổi bình minh của Nền Cộng Hòa ("The First Day") thật là huy hoàng rực rỡ. Nhiều quan sát viên ngoại quốc cho rằng đây chính là "một cuộc cách mạng đã bị mất đi" (the lost revolution) của Miền Nam Việt Nam.
Bài viết của Giáo sư Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, trích dẫn từ cuốn sách 'Khi Đồng Minh Nhảy Vào' mới xuất bản tại Hoa Kỳ. Sinh năm 1935 ở Thanh Hóa, tác giả từng giữ chức Tổng trưởng Kế hoạch của Chính phủ Việt Nam Cộng hòa kiêm cố vấn của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu trước 1975 ở Sài Gòn. Hiện ông định cư tại Hoa Kỳ. Ông là tác giả cuốnKhi Đồng minh Tháo chạy và là đồng tác giả cuốn The Palace Files- Hồ sơ Dinh Độc Lập, viết cùng Jerrold L. Schecter bằng tiếng Anh.

Thứ Bảy, 23 tháng 10, 2021

CHA ĐẺ CỦA MÁY ĐỊNH VỊ GPS

CHA  ĐẺ CỦA MÁY ĐỊNH VỊ GPS

Ai họa kiểu sáng tạo ra máy định vị? (GPS - Global Positioning System) - William Hoàng
Cha đẻ của máy GPS là một Cựu SQ/QLVNCH
Hiện nay, nhiều người đã sử dụng máy định vị GPS để đi đường, khỏi phải dùng bản đồ.
Máy GPS giúp người ta đến các địa chỉ cần tìm như hàng ăn, cây xăng, cửa tiệm, …và tất nhiên là đến đúng ngay số nhà cần tìm.
Quân đội Mỹ đã sử dụng máy này để đột nhập vào ngôi nhà mà Bin Laden (Trùm khủng bố) đang ẩn náu.
Một trong bốn người họa kiểu máy định vị (GPS) là Tiến Sĩ Lữ Phúc Bá. Ông là vị sĩ quan đầu tiên trong quân lựcViệt Nam Cộng Hòa có cấp bằng Tiến Sĩ Truyền Thông của Hoa Kỳ.
Ông được Cục Truyền Tin/Quân Lực VNCH gửi đi tu nghiệp tại Mỹ và khi trở về được bổ nhiệm làm Giám Đốc Cơ Quan Quản Trị Truyền Thông (Communications Management Agency, CMA), chuẩn bị tiếp thu và tái phối trí các đài trong hệ thống viễn liên của Mỹ (ICS) trong kế hoạch Việt Nam Hóa. 
Về sau đổi tên thành Trung Tâm Điều Hành Viễn Liên trực thuộc Phòng 6/Tổng Tham Mưu do Đại Tá Nguyễn văn Thịnh làm Giám Đốc. Trung tâm này có trách nhiệm bảo đảm và duy trì liên lạc viễn liên trên toàn cõi VN cho quân đội và dân sự.
Sau biến cố 30/4/1975, ông bị tập trung cải tạo nhưng sau đó, chính quyền VN cho ông cùng một số nhân viên khác miễn tù cải tạo với danh nghĩa là chuyên viên rồi vài năm sau, ông ra đi vượt biên.
Tới Mỹ, ông được đặc biệt giúp đỡ ghi danh và chỉ hai tuần sau khi đến Mỹ, được tuyển dụng vào làm việc tại NASA ở Houston. Ông cũng được đặc biệt giúp đỡ bảo lãnh ngay vợ con qua Mỹ.
Hiện nay ông đã về hưu. Tôi là người phục vụ trực tiếp dưới quyền ông và đã gặp lại ông tại Houston năm 2010. Ông đưa cho tôi coi một số các Tưởng Lục (Awards) về những công trình nghiên cứu khoa học của ông.
Có thể nói TS Lữ Phúc Bá là một trong những nhân tài Việt không được quyền nổi danh vì lý do những công việc làm liên quan tới những bí mật quốc phòng. GPS là một trong những chương trình nghiên cứu phát triển cho quốc phòng mà ông tham gia và phải 10 năm sau, máy này mới được phép đưa ra cho dân sự sử dụng.

Thứ Tư, 20 tháng 10, 2021

LỊCH SỬ HAI BÀ TRƯNG

LỊCH SỬ HAI BÀ TRƯNG

Nguồn : Page Phóng Viên Chiến Trường 

Trong lịch sử thế giới, hiện tương người phụ nữ cầm quân đuổi giặc ngoại xâm rồi lên ngôi xưng vương rất hiếm thấy. Lịch sử Việt Nam rất tự hào có người như vậy, đó là Hai Bà Trưng.

Hai Bà Trưng là tên gọi chung cho hai chị em: Trưng Trắc và Trưng Nhị.

Theo Đại Việt Sử ký toàn thư, Hai Bà là con gái của Lạc tướng ở huyện Mê Linh, Châu Phong (nay thuộc phần đất của tỉnh Vĩnh Phúc và một phần vùng ngoại thành Hà Nội). Trưng Trắc có chồng là Thi Sách, con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên (thuộc một phần đất của tỉnh Hà Tây và tỉnh Hà Nam). Tháng 2, năm Canh Tý (40), các Lạc tướng nổi lên chống lại sự cai trị của Thái thú Tô Định. Cuộc chống đối bị thất bại và Tô Định bắt, Thi Sách đem đi giết.

Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị tiếp nối sự chống trả giặc thù của chồng. Cùng năm ấy (40), Hai Bà tập hợp nhân dân, tự cầm binh cỡi voi tấn công giặc Hán, đuổi Tô Định chạy về nước. Hai Bà lấy được 65 thành, lên ngôi vua tự xưng là Trưng Nữ Vương.

Năm Nhâm Dần (42), quân Hán là Mã Viện đem binh sang xâm lược nước ta. Do thế giặc quá mạnh, Hai Bà Trưng cầm cự đến năm 43 thì thua trận. Theo truyền thuyết, Hai Bà chạy đến sông Hát (Hát Môn, Hà Tây) tự vẫn để bảo tồn khí tiết, không để lọt vào tay giặc. Có sách viết, Hai Bà bị giặc bắt và đem xử trảm (?).

Nhân dân Việt Nam nhớ ơn, lập đến thờ Hai Bà ở Mê Linh và Hà Nội. Trưng Trắc và Trưng Nhị được nhân dân kính cẩn gọi chung là Hai Bà Trưng, với chữ Hai Bà được trân trọng viết hoa. Tên gọi Hai Bà Trưng được đặt cho hầu hết các con đường trong khắp tỉnh thành của Việt Nam. Nhiều trường học cũng mang tên Hai Bà Trưng.

Ngày 6 tháng 2 âm lịch hằng năm là ngày giỗ Hai Bà Trưng. Trước năm 1975, ở miền Nam gọi ngày giỗ Hai Bà Trưng là ngày Phụ nữ Việt Nam.

Hằng năm, đô thành Saigon chọn ra một nữ sinh trường Trung học Trưng Vương và một nữ sinh trường Trung học Gia Long để vinh dự đóng vai Hai Bà Trưng trong buổi diễn hành kỷ niệm ngày Phụ nữ và vinh danh chiến công Hai Bà.

BÀ TRƯNG

Bà Trưng quê ở Châu Phong

Giận người tham bạo, thù chồng chẳng quên

Chị em nặng một lời nguyền

Phất cờ nương tử, thay quyền tướng quân

Ngàn tây nổi áng phong trần

Ầm ầm binh mã đến gần Long Biên

Hồng quần nhẹ bước chinh yên

Đuổi ngay Tô Định, dẹp yên biên thành

Đô kỳ đóng cõi Mê Linh

Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta

Ba thu gánh vác sơn hà

Một là báo phục, hai là bá vương.

Uy thanh động đến Bắc phương

Hán sai Mã Viện lên đường tiến công

Hồ Tây đua sức vẫy vùng

Nữ nhi mà chống anh hùng được nao

Cấm Khê đến lúc hiểm nghèo

Chị em thất thế cùng liều với sông

Phục Ba mới dựng cột đồng

Ải quan truyền đến biên công cõi ngoài

Trưng Vương vắng mặt còn ai

Đi về thay đổi mặc người Hán quan.

Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2021

GIỌT MƯA

GIỌT MƯA

Nhạc và lời: Minh Nhã Nguyễn Thanh Dũng

Tiếng hát: Ca sĩ Tâm Thư

Hòa âm: Nhạc sĩ Đặng Vương Quân

 

Thứ Tư, 13 tháng 10, 2021

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

TRÁI TÁO CỦA STEVE JOBS

Nguyễn Trần Diệu Hương

Cuộc đời của thiên tài Steve Jobs mãi mãi ngừng ở tuổi 56 để lại tiếc thương cho cả triệu người khắp thế giới. Đóng góp của ông cho khoa học đã tạo cảm hứng cho họa sĩ Gudjonsson vẽ hình ông cầm trái táo đứng trước cửa thiên đường kèm theo lời chú thích: "Có ba trái táo trong lịch sử của nhân loại: trái táo của ông Adam, trái táo của ông Newton và trái táo của ông Jobs.”

blank

Courtesy of Artist Sigudur Gudjonsson and www.bostonherald.com 

Trái táo của ông Adam, trong lãnh vực tôn giáo, là một hình tượng so sánh nhiều hơn là hình ảnh của những trái táo xanh , đỏ, vàng bán ở chợ. Trái táo của ông Newton lẫy lừng trong lịch sử khoa học, là một trái táo thật tròn trĩnh , -rớt từ trên cây xuống  ngay trước mặt nhà bác học-, đẻ ra lực hút của trái đất cùng nhiều định luật vật lý  đóng góp cho mọi ngành khoa học, đặc biệt là kỹ nghệ hàng không, và thám hiểm không gian. 

Trái táo, bị cắn mất  một miếng,của ông Jobs thì rất thật và rất gần với đời sống của nhân loại cuối thế kỷ 20, đầu thế kỳ 21, là logo của Công Ty Apple, luôn nằm ở một góc những sản phẩm kỹ thuật của Công ty này.

Máy personal computer (PC) Apple 2 được giới thiệu ở thị trường tiêu thụ Mỹ cuối năm 1977, khi những người Việt Nam tỵ nạn đầu tiên vẫn còn bỡ ngỡ ở một môi trường sống mới. Những em bé Việt Nam đến trường học Mỹ cuối thập niên 70s là những người Việt Nam đầu tiên quen thuộc với hình ảnh trái táo có màu sắc cầu vòng - bị cắn lẹm mất một miếng ở bên trên -  ở góc trái của cái computer Apple 2 vuông vức nằm chễm chệ trong phòng Science Lab của trường. Nhiều trong số em bé Việt Nam năm đó, về sau đã trở thành những kỹ sư computer giòi cả về cả hai mặt software và hardware, thầm lặng góp phần "behind the scene" cho các sản phẩm kỹ thuật càng ngày càng thon nhỏ, tối tân hơn.

***

Khi tôi xách cái túi nylon của Cao ủy Tỵ nạn Liên Hiệp Quốc đặt chân đến Mỹ, cuộc chiến kỹ thuật và thương mại giữa IBM và Macintosh (sản phẩm của Công Ty Apple) đã đến hồi quyết liệt mà phần thắng có vẻ nghiêng về IBM. Doanh số bán  máy computer Macintosh  kém xa mức dự đoán. Rất thực dụng kiểu Mỹ, không tình nghĩa, Ban Điều hành của Apple, Inc.  đẩy ông Steve Jobs ra khỏi Công ty do chính ông  (cùng một người bạn thời Trung học là Steve Wozniak)  góp phần xây dựng nên vì lý do IBM hấp dẫn người  mua hơn là Macintosh. Nhiều người bỏ xó, hoặc cho Macintosh để quay qua mua  PC  của IBM về xử dụng.  Sức bán của Apple 2 thua xa doanh số của IBM. Lúc đó là vào cuối thập niên 80s, một cái Apple 2 (tên gọi thông thường là Macintosh PC để phân biệt với IBM Computer) vào khoảng một ngàn ba trăm dollars.

Thời đó, computer labs ờ các trường Đại học có hai bên: một bên là IBM Computers, một bên là Apple Computers.  Máy personal computer (PC) còn đắt tiền nên đa số sinh viên phải vô lab để làm bài tập vì không có PC ở nhà. Thường thì nếu muốn dùng computer IBM phải chờ đợi, nhưng nếu dùng Macintosh thì lúc nào cũng có máy trống. Thấy rõ điều đó, nhà trường mở rộng IBM section, và thu hẹp Apple section. Ai vào lab thường xuyên đều thấy computer của IBM thắng thế rõ rệt so với Macintosh.  Đó có lẽ cũng là lý do mà sau thất bại của máy điện toán cá nhân Apple 3, Công ty Apple ngừng sản xuất computer, quay qua sản xuất các notebook, và iphone.

Ba "tài sản quý giá" đầu tiên ờ Mỹ của một người tỵ nạn như tôi lúc đó là : cái xe Toyota Celica cũ đã 12 tuổi màu nâu (để làm chân đi học, đi làm) , một cái TV mới 13 inches (để improve cách phát âm tiếng Mỹ) , và một cái PC cũ có logo trái táo với màu sắc cầu vồng nằm trong cái khung vuông vức, mà mãi về sau, tôi mới biết đó là Apple 2, một trong những công trình tim óc  của  hai thiên tài cùng mang tên Steve (Jobs và Wozniak).

Một người bạn, là một người di tản buồn từ tháng 4/75, mua một cái IBM PC mới, thấy tôi mới khởi đầu vào College với hai bàn tay trắng, không có ba mẹ bên cạnh nâng đỡ ; cần làm bài tập nhiều, anh cho tôi  cái computer cũ Apple 2.  Khỏi nói  nỗi vui mừng của một người mới vào College có được một cái desktop computer làm của riêng ờ vào cuối thập niên 80. tôi quý Apple 2 ngang với cái Toyota Celica mười hai tuổi mua bằng cà tháng lương đầu tiên của mình. 

Mãi về sau, sau này, dù đã được sử dụng và làm chủ 3 hay 4 computers cùng lúc, dù luôn luôn thích IBM hơn Macintosh, tôi không nỡ đem cho, hay quăng đi  cái Apple 2 cũ kỹ . Không chỉ vì đó là tài sản vô giá của tôi trong những ngày đầu lưu lạc quê người, đó là món quà tình nghĩa quý báu, mà còn vì Apple 2 có hình trái táo cắn dở với màu sắc cầu vồng cho tôi niềm tin muôn màu ở quê hương thứ hai.

***

Khả năng thư pháp học được từ một  semester duy nhất ở Đại học của Steve Jobs và khả năng tiềm ẩn về hội họa của ông đã làm Apple 2 thành một công cụ không thể thiếu trong công việc của những người làm việc trong lãnh vực graphic design, vẽ kỹ thuật.

Nhưng những người dùng computer trong thương mại hay như một cái kho lưu trữ tư liệu cần thiết thì mê IBM hơn. Do vậy không ngạc nhiên khi Apple không thể nào sánh được với IBM trong doanh số tiêu thụ.  Thất bại này như  “một viên gạch  mà cuộc đời liệng thẳng vào mặt” Steve Jobs như ông tự thú trong trong diễn văn nói chuyện với các sinh viên trường Đại học tư Stanford ở thành phố Palo Alto, quê nhà của ông.  Có lẽ đó cũng là lý do mà Macintosh computers chỉ có Apple 1, Apple 2, mãi mãi dừng lại ở Apple 3 non trẻ chết sớm , mà không bao giờ có Apple 4 tiếp  nối.

Apple 1 được tạo nên bởi Jobs và Steve Wozniak, một người bạn lớn hơn từ thời Trung học, cùng có đam mê phát minh máy móc như Steve Jobs. Hai ông Steve, cách nhau 5 tuổi, người nhỏ chững chạc hơn, người lớn hồn nhiên hơn số tuổi của mình, cùng đam mê sáng tạo khoa học, nên trở thành một teamwork  bình đẳng rất hữu hiệu. Hai chàng trẻ tuổi thông minh, cùng bỏ học ở năm đầu Đại học, cần cù làm việc vì đam mê ngay trong phòng của ông Jobs (lúc đó vẫn còn ở chung với cha mẹ nuôi) .  Những linh kiện điện tử (single circuit board. microprocessor) -được mua từ tiền bán chiếc xe Volkswagen Van cũ của Jobs, và cái máy tính điện tử scientific calculator HP 65 của Wozniak- , càng ngày càng nhiều đầy căn chung cư một phòng của ông Wozniak ở San Jose, đầy phòng của ông Jobs ờ Los Altos, California , rồi  lấn chiếm cả garage của cha mẹ ông Jobs. Chiếc máy điện toán cá nhân được hoàn thành,  ông Steve lớn (Wozniak) là người thiết kế, viết thảo chương điện toán , và trực tiếp ráp nối với sự góp ý và giúp sức của ông Steve nhỏ (Jobs), được đặt tên là Apple 1. Nhưng việc bán chiếc máy ra thị trường và lập nên Công ty Điện toán Apple năm 1976 là ý của ông Steve nhỏ.  Ông Wozniak có đầu óc của một nhà phát minh, sự thông minh của một nhà toán học, nhưng người nhìn xa hơn và mang tham vọng đem kỹ thuật nâng cao đời sống nhân loại, nói theo cách của người Mỹ là "think outside the box", là ông Jobs, người có tham vọng tạo thay đổi, tạo tiến bộ trong đời sống con người.

blank

Steve Jobs and Steve Wozniak in the early 70s (Courtesy of  theguardian.com

Họ cùng là sáng lập viên của Công ty kỹ thuật Apple, cái tên đến từ thói quen thích ăn táo, và từng một thời đi giúp người ta hái táo từ một trang trại ở địa phương của ông Steve nhỏ.  Steve Jobs thích tên "Apple"(trong 4 cái tên cả hai ông Steve nghĩ là sẽ dùng làm tên gọi cho Công ty mới thành lập của mình) vì Apple là tên một loại trái cây, đơn giản, dễ nhớ, và sẽ được xếp trong mẫu tự  A đầu tiên trong danh bạ điện thoại. 

Công ty có tên là Apple thì logo phải là một trái táo, nhưng hình vẽ trái táo được thu nhỏ lại hơi giống hình trái cà chua hay trái cherry. Táo phải là táo, rõ ràng và chính xác, không thể lẫn lộn với cà chua hay cherry được. Thế là logo mang hình trái táo bị cắn mất một miếng rất sắc gọn, để chắc chắn là không ai có thể lầm lẫn đó là trái cà chua.  Hầu hết mọi thứ đều là ý kiến của ông Jobs.  Ông Wozniak chì tập trung vào kỹ thuật và các thảo chương điện toán.

Dĩ nhiên ông Jobs cũng phải làm luôn công việc marketing trong những ngày Apple, Inc. còn là một em bé sơ sinh, chưa ai biết đến. Ông đem sản phẩm đầu tay - máy computer cá nhân Apple 1 hãy còn thô sơ- ra tiếp cận người tiêu thụ bằng cách mở cửa garage nhà cha mẹ nuôi, mời vợ chồng nhà hàng xóm bên kia đường qua giới thiệu. Cũng trạc tuổi cha mẹ nuôi của Steve Jobs, ông bà cụ hàng xóm không biết Steve là:

" Chàng tuổi trẻ vốn dòng....nổi loạn,

xếp bút nghiên theo việc..... phiêu lưu”

Ở nhà đối diện đã past được test dành cho các học sinh lớp 10 từ hồi còn là một cậu bé ở lớp 4. Họ lại càng không biết thiên tài còn "chiêu mộ" được một thiên tài khác (the other Steve- Wozniak) cùng chế tạo ra một cái máy điện toán cá nhân đầu tiên nên không chịu phí thì giờ bước qua bên kia đường.

Steve Jobs không phải là người chịu thất bại dễ dàng. Ông ngồi xuống bên cạnh hai người hàng xóm, khôn ngoan đánh đòn tâm lý vào cả ông lẫn bà:

 - Cái máy có thể giúp bác gái cùng những người thích nấu ăn giữ được tất cả recipes nấu ăn mà không cần phải dùng đến những tờ giấy viết tay sắp trong mấy cái hộp giấy. Vừa tiện lợi, vừa ngăn nắp khi cần tìm là có ngay.

- Cái máy có thể giúp bác trai theo dõi kết quả các trận đấu thể thao dễ dàng hơn và có thể giữ đầy đủ số liệu và sự nghiệp của từng cầu thủ hay từng đội mà bác yêu thích từ năm này qua năm khác mà không bao giờ bị lẫn lộn.
- Cái máy được đặt tên là Apple Computer.

Hai người hàng xóm trạc tuổi cha mẹ Steve nghe xuôi tai, mềm lòng cất bước sang garage nhà hàng xóm nghe hai ông Steve thay phiên nhau thuyết trình về cấu trúc của Apple 1 như đang thuyết trình trước các kỹ sư điện tử. Hai nhà phát minh trẻ hào hứng nói về công trình của mình và những ích lợi Apple 1 cung cấp cho đời sống hàng ngày. Ông bà hàng xóm nghe như là  "vịt nghe sấm" nhưng mặt mày bà hớn hở vì tưởng tượng việc bếp núc của mình sẽ dễ dàng hơn, không phải dùng kính lúp săm soi tìm từng cái recipe chữ nhỏ lấm lem dầu mỡ. Ánh mắt ông rạng rỡ niềm vui khi hình dung ra cảnh sẽ "nói có sách mách có chứng"  về các kết quả thi đấu thể thao mà không phải gân cổ lên to tiếng với các cổ động viên của đội tuyển đối phương.

blank

Childhood family home of Steve Jobs on Crist Drive in Los Altos, California that served as the original site of Apple Computer. It’s  one of historic Los Altos sites in 2013. (Courtesy of mercurynews.com. October 29, 2013)

Và như thế, Apple 1 "ra mắt" người tiêu dùng không kèn, không trống , không ai biết ngoài hai người phát minh trong độ tuổi 20 và hai người hàng xóm đứng tuổi trong một cái garage cũ ở vùng Los Altos, miền Bắc California vào April Fools' Day,  tháng 4 năm 1976. Rất đơn giản nhưng không phải là chuyện "đang giỡn" của ngày April Fool's Day - "cá tháng tư" -  mà là ngày khai sinh của đại công ty Apple lẫy lừng khắp thế giới sau này.

Mặc dù không bán được Apple 1 cho ông bà hàng xóm ờ nhà đối diện. Jobs học được bài học marketing thực tế và đã cùng Woz (tên gọi ông Steve lớn) bán được vài trăm computer Apple 1 cho các tiệm bán hàng quanh Mountain View, Los Altos, và Palo Alto bằng cách cổ điển như các em hướng đạo gõ cửa từng nhà bán bánh kẹo gây quỹ. Phát minh đầu tiên hãy còn thô sơ và nhiều khuyết điểm nhưng điều vui nhất và khá thành công là không có cái Apple 1 nào bị trả lại.

Phải đến lúc computer Apple 2 ra đời vào năm 1977  thì logo trái táo mới trở thành một  biểu tượng chính thức luôn luôn xuất hiện trên các sản phẩm của Công ty. Logo đầu tiên là một trái táo với 6 màu sắc khác nhau, phản ảnh Apple 2 là máy điện toán cá nhân đầu tiên có thể in ra  giấy với 6 màu sắc rõ nét.

Về sau, sau này, Apple 2, Lisa, Mac… hay các sản phẩm điện thoại càng ngày càng nhỏ và có đủ chức năng của máy chụp hình, computer,  nối kết với Internet do Apple, Inc. sản xuất, logo vẫn là trái táo cắn dở nhưng nhỏ hơn và thường là màu đen hay màu bạc. Hình như trái táo cắn dở vẫn có hình thù như ngày đầu tiên nhưng màu sắc khác nhau và không còn rực rỡ màu sắc cầu vòng của thuở ban đầu vì "cha đẻ ra trái táo kỹ thuật" đã bắt đầu đi vào giai đoạn thứ ba trong chu kỳ "sinh. lão, bệnh, tử" của đời người vào đầu thế kỷ 21.

blankblank

Logo các sản phẩm kỹ thuật của Cty Apple

Cũng vì bệnh ung thư, không còn sức khỏe để làm việc, ông Jobs phải nghỉ dài hạn. Thời gian đó, khi chưa phải là "thường trú nhân" của bệnh viện, ông có thì giờ thực hiện thú tiêu khiển của mình - đi bộ - quanh thành phố Palo Alto, nơi ông ở. Ông thường lái xe đến trường Stanford, lúc nào cũng "đóng bộ" trong  cái quần Jeans Levi’s bạc phếch và cái áo thun cổ cao màu đen, đi quanh quẩn trong campus của ngôi trường Đại học tư đẹp nổi tiếng cả thế giới. Lúc nào mệt, ông ngồi nghỉ trên những băng đá, có khi ngồi bệt dưới một bóng cây, đôi khi mắt nhắm lại tập trung thiền định trong thế giới tĩnh lặng của riêng ông. Sinh viên qua lại, thảng hoặc quan sát người đàn ông gầy yếu, xanh xao. Tuyệt nhiên không ai  nhìn ra đó là Steve Jobs.

Những lúc đó, ông nghĩ về cuộc đời, tự hỏi nếu ông được nuôi dưỡng trong một gia đình giàu có, dư dả để đóng học phí rất cao cho trường Đại học tư Reed College ở Oregon thì chắc là ông sẽ trở thành một nhà Toán học. Ông cũng nghĩ nếu khỏi bệnh, ông sẽ rút ngắn bớt giờ làm việc, thu xếp đi học lại, mặc dù có thể phải đi học dưới một cái tên khác để tránh bị chú ý và mất thì giờ không cần thiết như Steve Wozniak đã làm ở  UC Berkeley hơn 20 năm trước.

Những tháng cuối đời, lúc đời sống chỉ còn tính bằng tuần trên mười đầu ngón tay, thân thể mất dần sinh lực, mong manh như một chiếc lá khô sắp lìa cành, thỉnh thoảng ông Jobs vẫn tự lái chiếc xe Mercedes thể thao hai cửa đi làm, đậu ở khu vực sát cửa vào cho người tàn tật mặc dù không có giấy phép.  Ông đi xe Mercedes không phải vì muốn chứng tỏ mình thành công, giàu có mà vì ông rất ngưỡng mộ nhà bác học người Đức Albert Einstein và mê luôn các loại xe do nước Đức sản xuất. Lúc đó, ông Jobs không còn sức khỏe để đi bộ những khoảng cách dài mà cũng có thể thiên tài cho là quy luật dành cho người bình thường không thể áp dụng với mình. Cái xe của ông không hề có bảng số xe từ cả chục năm nay. Vì ông vốn thích sống khép kín, để không ai có thể nhận ra mình.  Dĩ nhiên ông thừa thông minh (và dư tiền) cứ sáu tháng đổi xe một lần để có thể lái xe không có bảng số như luật định cho phép. Cẩn thận như thế, thêm vào đó, bệnh ung thư ở giai đoạn cuối tàn phá cơ thể thiên tài. Bề ngoài của ông Jobs suy sụp nhanh chóng. Ít người nhận ra đó là một khuôn mặt lớn, quen thuộc, một vài lần xuất hiện trên trang bìa các tạp chí khoa học và cả trên  bìa trước của tuần báo Time (thường chỉ in hình các lãnh tụ và các danh nhân trên thế giới).

Thế nên có lần khi ông vừa ra khỏi cửa văn phòng, đúng lúc một gia đình du khách đến chụp hình bên cạnh logo trái táo bị cắn mất một miếng ở cổng chính của trụ sở Công ty Apple ở Cupertino, miến Bắc California. Người cha trong gia đình thấy ông đi ngang qua, chìa cái iphone của mình ra, lịch sự yêu cầu:

-  Ông có thể vui lòng giúp chúng tôi chụp một cái hình cho cả gia đình không?

Rõ ràng là họ không nhận ra người đàn ông cao gầy, râu ria tua tủa, mắt trũng sâu trong cái áo thun cổ cao màu đen và chiếc quần jeans bạc màu có một vài lỗ rách  là Steve Jobs.
Ông Jobs gật đầu, cầm cái iphone, điều chỉnh màn ảnh, lùi ra xa vài bước, ngắm nghía cẩn thận như một người thợ chụp hình dạo và bấm ngón tay cái khô khốc, thiếu sinh lực của mình lên màn ảnh, mỉm cười trao trả cái iphone có logo quả táo cho chủ nhân rồi lên xe rời Công tỵ  Đó cũng là một trong những lần cuối ông Jobs đến Apple, Inc. và có dịp nhìn thấy một trong những đứa con tinh thần của mình đã góp phần làm thay đổi đời sống của con người.

Cả gia đình người du khách cùng hướng mắt vào tấm hình nhỏ trên iphone, trầm trồ khen người chụp hình chụp rất đẹp và rất rành cách xử dụng iphone, không biết là họ vừa có cơ may hiếm có được Giám đốc Apple, Inc. - người góp phần lớn trong việc sáng tạo tất cả các sản phẩm của Apple, kể cả cái iphone của họ, chụp cho họ một tấm hình có thể là đẹp nhất trong đời.

blank

Tượng của Steve Jobs ở Budapest -Hungary-Science Park (Courtesy of GlobalPost. December 21, 2011)

Năm 2005, Steve Jobs  được mời nói chuyện với cả ngàn sinh viên tốt nghiệp ờ sân trường Stanford. Khác với những diễn giả khác ở các lễ ra trường luôn tô hồng cuộc đời trong con mắt vốn dĩ chỉ toàn màu hồng lạc quan và màu xanh hy vọng của các tân khoa, ông Jobs với kinh nghiệm cá nhân, với những điều học được từ giáo lý đạo Phật đã nói rất thẳng và rất thật:
Bây giờ các bạn còn trẻ và là sức sống mới của xã hội nhưng một ngày nào đó, không xa, các bạn sẽ già và sẽ bị đào thải. Xin lỗi, nhận xét đó có vẽ bi quan nhưng đó là sự thật  Đời sống có giới hạn, đừng phí thời gian. Hãy làm những gì mình thích.

Lời nhắn nhủ khác thường đó như một loại thuốc đắng giã tật đã giúp rất nhiều sinh viên ra trường năm đó nhận ra mình muốn gì, can đảm bỏ con đường thảm đỏ bằng phẳng, thênh thang đã được cha mẹ trài sẵn để bước vào con đường riêng gập ghềnh, khúc khuỷu của mình. Có người vấp ngã, có người thành công nhưng tất cả đều hạnh phúc với lựa chọn của mình như hình ảnh chàng thanh niên Steve Jobs chưa đến 20 năm xưa, bỏ trường Đại học, cùng một người bạn thân  hăm hở vác ba lô đi vòng quanh Ấn Độ (quê hương của Đức Phật Thích Ca) tìm ra chữ "lặng" trong tâm, đóng góp rất nhiều trong các phát minh khoa học kỹ thuật cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21.

Thiên tài có một bộ óc xuất chúng, một tầm nhìn xa về kỹ thuật nhưng ông vẫn là một con người nên cũng có nhiều điểm yếu. Chẳng hạn, khi trở bệnh nặng, phải nằm ở Intensive Care Unit của bệnh viện Stanford, ông Jobs nổi tiếng khó chịu. Bệnh nhân Steve chỉ nghe lời và cộng tác với 3 người y tá trong mấy chục y tá giỏi nhất của bệnh viện. Ông yếu dần, phải đi bằng cái walker và phải cố gắng bằng tất cả sức lực và ý chí còn lại của mình. Những bước chân chập chững đầu đời ông được nâng đỡ bằng bàn tay của mẹ nuôi (bà Clara Jobs) ở sân sau ngôi nhà thời ấu thơ thuộc thành phố nhỏ Los Altos, miền Bắc California. Cuối đời ông lại tập đi với sự trợ lực của cái khung nhôm walker và sự khuyến khích của vợ (bà Laurene Powell) trong khu ICU của bệnh viện Stanford. Đó là lúc ông sắp đi hết vòng tròn sinh tử của đời người.

Thời trẻ có lần ông Jobs nghĩ đến chuyện xuất gia, đi tu và thành một nhà sư trong một ngôi chùa Phật giáo ở Nhật nhưng một vị thiền sư người Nhật mà ông hết lòng ngưỡng mộ đã khuyên ông đi theo con đường kỹ thuật có hiệu quả hơn là con đường tu hành. Cũng chính thiền sư Kobun Chino Otogawa (1938-2002), cố vấn tinh thần của ông Steve, là người tổ chức lễ cưới cho ông Steve và cô Laurene trong một buổi lễ nhỏ giữa núi rừng gần công viên quốc gia Yosemite năm 1991. Lễ cưới của một nhà tỷ phú trẻ, một thiên tài điện toán, không có khách mời, không có áo quần xênh xang, không có hoa lá muôn màu, chỉ có cô dâu và chú rể đứng nghiêm trang nghe những lời giảng về "duyên và nợ" của một thiền sư Phật giáo người Mỹ gốc Nhật hòa vào tiếng chim hót, tiếng suối reo của đất trời thiên nhiên.

Hình như Steve Jobs sinh ra để chỉ hòa hợp với công việc và các sáng tạo kỹ thuật, ông không hòa hợp với con người. Rất nhiều kỹ sư giỏi, có tài từ chối làm việc với ông vì họ không thể chịu được lối làm việc tuyệt đối hoàn hảo và lối nói thẳng chói tai, làm mất lòng người nghe của sáng lập viên công ty Apple.
Khi ông Jobs qua đời, có một vài người bạn trẻ ở độ tuổi ngoài 20 đã ngồi trong hàng ngũ sinh viên ở trường Đại học Stanford năm 2005, say mê nghe ông nói chuyện năm xưa, đặt những ngọn nến hình trái táo bên cạnh di ảnh của thiên tài, thầm cảm ơn ông giúp họ đủ tự tin đi trên con đường mình chọn.

blankblank

Courtesy of artist Paresh Nath/ National Herald (India)                   Courtesy of  artist Nik Scott/ Australia

Là một thiên tài về khoa học điện toán, là một thần tượng của cả triệu người mê các sản phẩm  IPhone, IPod, IPac, ITunes (chữ  I viết tắt cho chữ Internet), các notebook Mac (do chữ Macintosh viết ngắn lại) là một thần tượng của cà triệu em bé và cả rất nhiều, nhiều người lớn mê bộ phim hoạt họa "Toys Story" được thực hiện bằng graphic design trên computer Mac, ông Steve Jobs cũng có nhiều khuyết điểm như bất cứ ai khác. Dù vậy hình ảnh của trái táo đủ màu bị cắn mất một miếng trên các sản phẩm điện tử của thời các máy computers Apple hay trái táo màu đen nhạt hoặc màu bạc trên các loại IPhone , các máy nghe nhạc IPod  nối kết được với Internet mãi mãi là một trong những đóng góp lớn nhất của khoa học cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21. Muốn hái hoa hồng nhiều khi người ta phải chịu rướm máu vì những cái gai nhọn trên cành. Mọi người có cơ hội làm việc trực tiếp với ông Jobs đều nhận ra điều đó.


blank

     Courtesy of artist David Fitzsimmons/ Arizona Daily Star

Có rất nhiều điều chẳng bao giờ một người bình thường như chúng tôi có thể bắt chước ông Jobs hoặc có những chọn lựa như ông nhưng chắc chắn là chúng tôi sẽ theo gương ông, sẽ làm được "Simplicity and Focus" (sống đơn giản và tập trung) như thiên tài đã làm và đã yêu cầu tất cả cộng sự viên của mình làm theo.

blank

          Courtesy of AZQuotes

Mỗi một lần lướt ngón tay trỏ trên màn ảnh Iphone tìm số phone hay một dữ liệu nào đó về một người thân quen, tôi vẫn nghĩ đến ông Steve thông minh với một đời sống không dài nhưng đủ để cho ông tạo được một chỗ đứng rất lớn trong lịch sử khoa học điện toán.

blank

Jobs presenting the iPhone 4 in 2010

Mỗi một lần chọn mua những trái táo ngọt ngọt chua chua, đủ màu, tôi cũng sẽ nhớ đến Steve Jobs và trái táo cắn dở của ông.  Có đến gần cả chục loại táo đủ màu bán trong các chợ nhưng không hiểu tại sao loại táo xanh được trồng từ một tiểu bang Tây Bắc nước Mỹ có dán nhãn hiệu Washington với riêng tôi, vẫn gần với trái táo của Công ty Apple nhất . Có thể vì trái táo xanh gắn liền với  màu xanh tươi tốt, hy vọng của rừng thông bạt ngàn ở tiểu bang Oregon nơi ông Jobs đã học và mang thư pháp vào các máy computer của Apple tạo cho chúng ta nhiều kiểu chữ vừa đẹp, vừa rõ ràng. Có lẽ một người đạo Phật, ăn chay từ nhỏ như ông Steve rất thích ăn táo và các thực vật màu xanh. 
Món ăn ông Jobs thích nhất ngoài táo là cà rốt sống. Ông nhai cà rốt mà không cần đến một thứ nước chấm dressing nào như loài thỏ thưởng thức loại thực vật giòn tan màu vàng cam. Chuyện khó tin nhưng có thật là ở giữa một đất nước thừa mứa thức ăn như Mỹ, trong một thời gian rất dài,  ông Jobs chỉ ăn táo và một vài loại rau quả mà không đụng đến thịt và các loại thực phẩm khác nên cho đến bây giờ chỉ có mỗi một trái cây duy nhất là trái táo được đi vào lịch sử khoa học kỹ thuật. Sau khi ông Steve qua đời, hẳn là nhiều "tín đồ" của những dụng cụ điện tử cá nhân sẽ thích ăn táo hơn.
Từng đặt chân đến rất nhiều nơi trên thế giới nhưng Steve Jobs luôn gắn bó đời mình với miền Bắc California. Ông sinh ra ở San Francisco, ấu thời và thiếu thời ở Los Altos, thời trung niên cho đến lúc lìa đời, ông sống ở Palo Alto trong một ngôi nhà cổ kính, nhiều cây mà thời sinh tiền, ông vẫn đi thiền hành bằng chân trần dưới những bóng cây.
Ông chọn nơi an nghỉ ngàn đời ở nghĩa trang tư Alta Mesa Memorial Park cũng thuộc thành phố Palo Alto, rất gần ngôi nhà Steve Jobs sống ở giai đoạn cuối đời (một ngôi nhà đơn giản như ý thích của ông). Steve Jobs muốn được an táng ở đây vì muốn được "làm hàng xóm" của những người ông từng ngưỡng mộ: nhà Sử học Thomas A. Bailey, người đồng sáng lập Công Ty Kỹ thuật Hewlett-Packard: David Packard, William Bradford Shockley Jr, người được giải Nobel Vật Lý năm 1956, Frederick Terman (một trong hai người góp phần tạo nên trung tâm kỹ thuật Silicon Valley của Mỹ và của cả thế giới).

Điều khác biệt duy nhất với "hàng xóm miên viễn" là theo ước nguyện của Steve Jobs, mộ bia của ông không khắc tên, để trống.

Để tưởng nhớ ông, Công Ty Apple đã cho xây một hội trường nằm dưới lòng đất (như người sáng lập Apple đã vĩnh viễn an nghỉ trong lòng đất) rộng 167 ngàn square foot (15,514 mét vuông) ở ngay trụ sở của Apple thuộc thành phố Cupertino. Hội trường, rạp hát này được đặt tên là Steve Jobs Theater có 921 ghế được xây dựng với kỹ thuật hiện đại, được khánh thành vào năm 2017, sáu năm sau khi Steve Jobs về với cát bụi.

blank

In courtesy of www.fosterandpartners.com

***

Ngày được tin ông mất, tôi làm một bài thơ ngắn gởi đến rememberingsteve@apple.com  để góp phần tưởng nhớ nhà phát minh ngắn số:

One of the brightest stars of the world just fell.

But everything you did will be with us forever.

Your life doesn't last long enough as expectation

But your achievement will be a lifetime motivation for youngsters.


Every time I work on my laptop, I'll think of you.

Heaven will be opened for someone like you.

Surely you will be happy in a better place

Where there is no war, no killing, and illness.


RIP somewhere that is always calm and peaceful.

Million thanks for leaving behind a technical legacy.

Mong vô cùng một ngày nào đó, chúng ta sẽ có một David, Ted,  Anthony, William... Nguyễn, Phạm, Lê, Huỳnh… ở Mỹ  hay một Pierre , Daniel, Francois, Jean… Trần, Ngô, Đặng, Lý…  ở Pháp hay một Tuấn, Sơn, Minh, Nam... Bùi, Đoàn, Phan, Trương ở Việt Nam... đi tiếp được con đường ông Steve Jobs đã đi. Lúc đó chắc là bưởi Biên Hòa, chôm chôm Long Khánh, măng cụt Lái Thiêu hay nhãn lồng ở Huế sẽ có chỗ đứng trang trọng cạnh bên trái táo cắn dở mà ông Steve  Jobs đã vĩnh viễn bỏ lại ...

Nguyễn Trần Diệu Hương

(Bài này viết tháng 10 năm 2011, được hiệu đính lại tháng 10 năm 2021 để tưởng nhớ ông Steve Jobs, 10 năm sau ngày ông qua đời OCT 5 2011)

(Viết cho H4, H5 - Kính tặng các Thầy Cô dạy Toán thời Trung học của em)