Hiển thị các bài đăng có nhãn Con người và thiên nhiên. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Con người và thiên nhiên. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024

ĐI THĂM LÀNG HỒ, LÀNG ĐUÔI

ĐI THĂM LÀNG HỒ, LÀNG ĐUÔI

Nguyễn Văn Tới

Các cháu mồ côi người Thượng đi học về, Yá (Sơ) Lach, và chúng tôi.
Tôi xin kể bạn nghe câu chuyện về hai ngôi làng, một của người Bahnar và làng kia của người J’rai trên vùng cao nguyên Trung phần Việt Nam, bây giờ được nhập chung là tỉnh Gia Lai-Kontum. Nói rõ hơn một chút, Làng Hồ, ngôn ngữ Bahnar là Kontum; Làng Đuôi, tiếng J’rai là Pleiku. Kon là ngôi “Làng”, Tum là cái “Hồ”. Kontum nghĩa là Làng Hồ. Plei là ngôi “Làng”, Ku là cái Đuôi. Pleiku nghĩa là Làng Đuôi. Những người sống trong hai ngôi làng này được gọi là dân Làng Hồ và dân Làng Đuôi.
    Cuối năm 2022, tôi và vài người bạn có dịp về thăm lại chủng viện Thừa Sai Kontum, nơi chúng tôi trải qua một thời hoa niên êm đềm trong những năm trung học. Một ngôi nhà rộng lớn, hai tầng và một tầng hầm, có tuổi đời gần 100 năm, được xây dựng bằng gỗ và đất bùn trộn rơm với mái ngói đỏ thắm, lối kiến trúc pha lẫn nét Tây phương và dáng vẻ một ngôi nhà sàn của đồng bào Thượng Bahnar. Chúng tôi đã sống, đã học hành trong ngôi trường đẹp đẽ thân yêu đó cho đến khi biến cố năm 1975 xảy ra.
    Đầu năm 2024, dịp may lại đến khi vợ chồng người bạn, cô NL và anh L có nhã ý muốn góp một ít tiền bạc của anh chị em trong gia đình họ để làm việc từ thiện và anh chị đã chọn Làng Hồ và Làng Đuôi. Chúng tôi nói chuyện với nhau và NL sẽ thay mặt gia đình đi với chúng tôi về hai ngôi làng này để được tận mắt thấy những gì đang xảy ra nơi đây. Chúng tôi đi vào những buôn làng xa xôi, làng phong cùi và những nơi bị quên lãng, nơi mà ánh sáng văn minh không rọi tới, nơi mà những người bình thường như chúng ta ít khi hoặc chưa bao giờ nghe nói đến.
    Trước đây khi còn đi làm, tôi suy nghĩ rất đơn giản về việc làm từ thiện. Mỗi năm cứ gởi một số tiền cho KMF tức Kontum Missionary and Friendship (1), một hội đoàn mà tôi tin tưởng rồi phó mặc cho họ muốn làm gì thì làm. Nhiệm vụ của mình vậy là xong. Luơng tâm yên ổn và bình thản vì mình đã có chút gì đó đóng góp cho xã hội, cho người nghèo và cho người kém may mắn hơn mình. 
    Bây giờ, khi đích thân lặn lội đến tận nơi, mắt thấy, tay sờ, tôi mới cảm nhận được sự thay đổi lớn lao trong tâm hồn mình. Chuyến đi này đã chuyển biến tâm hồn tôi từ một người cái gì cũng theo một lối mòn xưa cũ: ai làm gì, mình cũng làm theo cho có với người ta, cho xong bổn phận một người có đạo, một người có tấm lòng. 
    Chúng tôi được Yá (2) Lach, một Sơ người Thượng phụ trách nhà Mồ Côi Vinh Sơn ở làng Dak Ro Wa, trán đẫm mồ hôi vì đang cho heo ăn, Yá dẫn chúng tôi đi theo một lối mòn nhỏ trong khu rừng cao su của nhà nước. Yá nhìn đồng hồ tay và nói chắc các cháu cũng sắp đi học về. Chỉ vài phút sau, chúng tôi nhìn thấy một đàn trẻ em, hầu hết là bé gái, tuổi từ 7 đến 10, đang tung tăng bước trên con đường đất đầy bụi đỏ. Khi thấy chúng tôi, các cháu khoanh tay lại cúi chào và nói to “Chúng con xin kính chào chú, chào các cô”.
    Chúng tôi cũng chào lại và xoa đầu các cháu, chúng ôm lấy chúng tôi, tôi cảm nhận được vòng tay nhỏ bé đang khao khát một tình thương gia đình êm ấm; tôi ôm lấy đôi vai gầy guộc, ngón tay chạm được bờ vai xương xẩu của các cháu. Trái tim tôi nhói lên. Tôi bỗng thấy nao nao và ray rức cõi lòng. Tôi cố ngăn giọt lệ sắp chực chờ tuôn rơi. 
    Khi phát quà cho các cháu gái là những con búp bê đủ màu sắc, nhìn ánh mắt các cháu sáng lên niềm vui hạnh phúc và đôi bàn tay nhỏ bé của các cháu ôm lấy búp bê vào lòng mà chúng tôi không dằn được cảm xúc. Cô bạn NL tiến đến gần một em bé và hỏi sao con không mở gói quà, lấy búp bê ra chơi? Cháu rụt rè thưa: "Con sợ nó sẽ bị cũ đi".
 
blank
Các cháu gái vui mừng lần đầu tiên, tuổi thần tiên các cháu có được búp bê. Các cháu trai có đồ chơi xe hơi. Đa số các cháu mặc quần áo “si đa”, có cháu mang dép quá khổ, có cháu chân không dép. 
 
Đôi mắt các cháu, những đôi mắt đen trong trẻo chưa vương bụi đời, những đôi mắt thánh thiện chan hòa nắng ấm, những đôi mắt có cả màu xanh của rừng núi đại ngàn, thanh khiết mênh mông mà sao lại như ẩn khuất một nỗi buồn mênh mang. Tôi nhận ra đó là nỗi buồn của những đứa trẻ không cha không mẹ, nỗi buồn thiếu vắng một mái ấm gia đình. 
blankRau do các Yá và các cháu lớn tự trồng để cải thiện bữa ăn.
blank
Xe cải tiến để các cháu lớn chuyên chở lúa, rau, khoai tự trồng.                                             
blank
Các cháu lớn đi kiếm củi về.
 Sau này, tôi mới tìm hiểu tại sao các cháu mồ côi đa số là con gái mà lại ít con trai. Người Thượng theo chế độ Mẫu Hệ nên con gái được chú ý và được ưu tiên hơn con trai. Họ lại có hủ tục kỳ lạ như nếu người mẹ mới sinh con nhỏ, chẳng may mẹ bệnh chết, đứa con sẽ bị chôn theo người mẹ. Hội KMF là một tổ chức từ thiện của giáo hội Công Giáo thuộc địa phận Kontum. Các thiện nguyện viên của hội thường xuyên đi vào làng Thượng và hợp tác chặt chẽ với các linh mục coi xứ để giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Khi hay tin có trẻ phải bị chôn theo người mẹ, họ can thiệp và xin những đứa trẻ này về cho các Yá ở nhà Mồ Côi nuôi dưỡng.
    Năm 2022, tôi về lần đầu và đã vào làng Thượng thăm người bạn cùng lớp làm linh mục đang coi một giáo xứ Thượng rất nghèo. Tôi chứng kiến người Thượng đang bị đẩy lùi sâu vào rừng, không còn đất canh tác, không còn lúa bắp đủ ăn. Năm nay, tôi quyết định dành thêm thời gian đi vào sâu hơn trong rừng và đi nhiều nơi hơn, tôi mới thấy được họ sống cơ cực đến mức nào.
    Yá Lach kể một câu chuyện pha chút hài hước và bi thương. Không có đất trồng trọt lại thêm thiếu hiểu biết, gia đình kia có đến 18 đứa con, họ cứ “ăn rồi đẻ cho đến hết trứng thì thôi”. Đẻ xong, không nuôi nổi, họ đem cho các Yá đem về nuôi giùm. Cứ như vậy, các nhà mồ côi vừa nhận các cháu không cha mẹ và nhận cả các cháu mồ côi “tỵ nạn kinh tế”.
    Trong kinh 14 Mối đạo Công Giáo, có 7 Mối dạy về thương người mà trong đó có 3 Mối rất thực tế: thứ nhất cho kẻ đói ăn, thứ 2 cho kẻ khát uống, thứ 3 cho kẻ đói rách ăn mặc. Con người khi đói, cho họ ngắm nhà thờ xây cao to để làm chi? Chi bằng ta cho họ cái ăn, cái mặc, cái áo ấm khi mùa đông cao nguyên tràn về. Đó là những cử chỉ thiết thực nhất của một người biết san sẻ yêu thương.
    Bok Binh, người bạn linh mục đang coi xứ Kon Mahar tâm sự: bị chính phủ quên lãng, nếu muốn giúp họ, phải có kế hoạch lâu dài là cố gắng giúp người dân nâng cao nhận thức và thay đổi cách sống bằng cách giúp con em họ đi học mà đi học phải có nơi ăn ở, phải có thuốc men và rất nhiều nhu cầu khác. Nếu cha mẹ vui thì cho đi học, buồn thì cho con ở nhà ẵm em, đi rẫy hay đi lấy nước. Sau này, có kiến thức, các cháu sẽ trở về và phục vụ cho chính bản làng của mình chứ chúng ta không thể nào cứ cho họ con cá mãi được, phải giúp họ cái cần câu. 
LÀNG HỒ, KONTUM
Theo truyền thuyết về Làng Hồ thì ngày xa xưa lắm, con sông Dakbla là con sông chính chảy giữa, chia đôi hai ngôi làng Bahnar và làng J’rai, làng bahnar ở đầu nguồn và làng J’rai ở cuối nguồn.  Một chàng trai J’rai đem lòng yêu thương một cô gái Bahnar đầu nguồn, bên kia bờ. Thời gian này, hai làng đang có chiến tranh với nhau, hận thù ngút trời. Hai người yêu nhau say đắm như mối tình Romeo và Juliet cách đây vài thế kỷ ở phương Tây.
    Khi núi rừng khoác lên mình lớp áo mùa Thu vàng rực rỡ, khi mùa màng đã gặt hái xong, ánh trăng trải một màu vàng nhạt trên huyền ảo trên núi đồi, chàng trai bơi qua sông tìm đến với người mình yêu, cả hai cùng tận hưởng vị ngọt ngào và cả vị đắng của tình yêu, họ trao cho nhau biết bao lời thề hứa dưới sự chứng giám của Yàng và sự bao la, bàng bạc của hồn thiêng sông núi.  
    Khi quá tuyệt vọng vì biết mối tình của họ chắc chắn sẽ chẳng được buôn làng chấp nhận, họ lại hẹn nhau vào một đêm trăng sáng sẽ ra sông, nàng bên bờ này, chàng bên bờ kia, đúng vào lúc mây che mờ vầng trăng, sẽ cùng nhau tự sát bằng dao và cùng nhảy xuống sông để cùng được chết bên nhau, hy vọng sẽ hóa giải được mối thù hận giữa hai buôn làng.
    Dòng máu chàng trai J’rai ngược dòng nước, chảy về phía thượng nguồn tìm về nơi cô gái Bahnar ở. Dòng máu của nàng chảy xuôi dòng về phía ngôi làng của chàng trai. Đến giữa sông thì hai dòng máu gặp nhau, máu chàng quyện vào máu nàng rồi chảy ngược dòng về phía thượng nguồn. Máu của hai người yêu nhau nhuộm đỏ nước sông Dakbla. Lạ thay, hai bên bờ sông trước đây thẳng tắp, nay bỗng biến thành quanh co, uốn khúc như minh chứng cho mối tình đau thương và trắc trở của cặp tình nhân .
    Ngày hôm sau, khi dân làng ra sông lấy nước, họ thấy nước sông đỏ ngầu mà nước lại chảy ngược dòng. Khi các trưởng làng hai bên bàn bạc với nhau và biết được uẩn khúc tình yêu của đôi trai gái, họ ngồi xuống bên ghè rượu Cần, cùng uống và cùng khóc với nhau, quyết định gạt bỏ quá khứ hận thù, kết nghĩa anh em. Từ đó, hai làng sống hòa thuận yêu thương trong hòa bình cho đến bây giờ nhưng dòng sông không bao giờ đổi dòng được nữa. 
    Ngày nay, du khách có dịp đến Kontum, xe chạy đến cầu sông Dakbla, trước khi vào thành phố, xin hãy ngừng xe, đứng bên thành cầu nhìn xuống dòng sông đỏ phù sa chảy ngược dòng, dành một phút để lòng tưởng nhớ và tìm về mối tình Romeo và Juliet của Làng Hồ và Làng Đuôi. 
Chú thích: Yá trong ngôn ngữ Bahnar nghĩa là Ma soeur. Bok nghĩa là Cha.

Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

AMISH LÀ AI?

 AMISH LÀ AI?

Hồ đắc Vũ

theo Matthew Diebel, USA TODAY




Vụ bắt cóc và trở về của 2 cô gái người Amish tại New York lên báo, một lần nữa dư luận lại quan tâm đến dân “Amish”. Cảnh Sát phải cần họa sĩ để vẽ chân dung của các cô gái bị mất tích, vì dân Amish không được chụp hình, họ là những người từ chối sử dụng công nghệ, sống đơn giản, biệt lập, còn được gọi là dân “Pennsylvania Dutch” (Dân Hòa Lan ở Pennsylvania).

Thành phố Amish, indiana. nguồn: Patheos      

Dạo chơi bờ sông Charles, Boston, tôi gặp một nhóm người da trắng ngồi bên bãi cỏ xanh đầy nắng, họ vui chơi, thổi sáo, hát những ca khúc lạ tai. Các cô gái tóc vàng, mắt xanh, đẹp tự nhiên, không một chút son phấn, trang phục áo đầm dài màu đen, yếm choàng trắng, nón trắng, kiểu giống những người làm nông trại ở Âu Châu; đàn ông, nón đen, áo trắng quần đen, quai đen. Tôi chào, họ tươi cười chào lại, sao tôi vẫn thấy họ rất khác biệt với dân Mỹ thường gặp, hỏi ông ngồi bên

– Họ là dân Amish ở Mỹ.

Lịch sử người Amish ở Hoa Kỳ

Dân Amish đã có mặt ở Mỹ lâu lắm rồi. Người đầu tiên tới đây vào đầu thế kỷ 18 vì trốn khỏi cuộc thanh trừng tôn giáo ở Âu Châu và tìm đất sống. Amish là những người thuộc giáo phái Anabaptist của Giáo Chủ Jakob Ammann từ Thụy Sĩ lúc cuối thế kỷ 17, họ tin rằng “Các tín đồ phải tuân theo lời giáo huấn của Chúa” và “Từ bỏ thế giới” trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tên Amish xuất từ tên của Giáo Chủ Ammann.

Gia đình Amish. nguồn: flowerpatchcottage.com

Ngôn ngữ

Người Amish sử dụng phương ngữ “Pennsylvania Dutch”, được phát triển từ ngôn ngữ của tổ tiên Thụy Sĩ và Đức, tuy nhiên, trong hơn 3 thế kỷ, ngôn ngữ của họ đã phát triển và thay đổi rất nhiều đến nỗi người nói tiếng Đức bản địa cũng khó mà hiểu được. Chữ “Dutch” (Hòa Lan) trong “Pennsylvania Dutch” không ám chỉ đến đất nước Hòa Lan với địa hình bằng phẳng và tràn ngập hoa, mà là “Deutsch” – tiếng Đức. “Pennsylvania Dutch” là một phương ngữ của Đức. Người Amish nói tiếng Đức nhưng cách phát âm không giống tiếng Đức bây giờ. Ngôn ngữ của họ còn bị ảnh hưởng bởi tiếng Anh do môi trường sống xung quanh. Một số người Amish, đặc biệt là ở tiểu bang Indiana, nói một thứ tiếng gần với tiếng Đức, Thụy Sĩ.

Nơi sinh sống

Với việc canh tác nông nghiệp là nền tảng căn bản trong cuộc sống, người Amish không bị ảnh hưởng bởi những lối sống hiện đại giữa một quốc gia tân tiến nhất thế giới. Họ luôn tìm kiếm những vùng đất mới cách xa các khu đô thị. Sau lần đầu định cư tại Ohio, bây giờ thì dân Amish có mặt trên 30 tiểu bang và cả Canada, Ohio đông nhất, sau đó là Pennsylvania và Indiana.

Đàn ông Amish. nguồn: beardoholic.com

Dân số

Dân Amish là một trong những nhóm có dân số gia tăng nhanh, khắp nước Mỹ. Theo phúc trình của Trung Tâm Thanh Niên Anabaptist và cuộc nghiên cứu tại Elizabethtown College ở Lancaster, Pa. Dân số Amish tăng trưởng từ 5,000 người năm 1920 tới gần 300,000 bây giờ. Vào năm 1984, chỉ có 84,000 người Amish, như vậy so với hiện tại đã tăng hơn 3 lần. Dân Amish coi một gia đình đông con như là phước lành Chúa ban và càng đông thì càng có nhiều sức lao động đáp ứng cho nghề nông của họ.

Công việc, thuế và nghĩa vụ quân sự

Với dân Amish, nông nghiệp là truyền thống lao động. Tuy nhiên, trong thế kỷ qua, theo phúc trình của Trung Tâm Trẻ Amish, số lượng người Amish tham gia vào công việc thương mại đã gia tăng nhiều, đáng kể nhất là nghề làm đồ gỗ, tủ bàn giường ghế và bán sản phẩm nông nghiệp. Họ cũng có những nhóm xây dựng, làm nhà cho những người không phải là Amish, đôi khi cũng có người làm việc tại hãng xưởng của người Mỹ, chẳng hạn như xưởng xe hơi, đặc biệt tại Indiana.

Họ cũng đóng thuế lợi tức của mình, thuế tài sản, thuế hàng hóa, thuế bất động sản và thuế trường học. Trên thực tế, nhiều người Amish trả thuế trường học 2 lần, cho cả trường công và trường tư.

Tuy nhiên, họ không nộp và cũng không nhận được tiền bảo hiểm xã hội. Quốc Hội đã miễn trừ cho dân Amish vào năm 1965, vì cho rằng đó là hình thức bảo hiểm thương mại. Dân Amish tin rằng những thành viên của nhà Thờ phải giúp đỡ về sức khỏe và vật chất cần thiết cho người trong cộng đồng.

Amish được miễn phục vụ trong Quân Đội vì niềm tin vô đối kháng, một thuật ngữ của chủ nghĩa hòa bình.

Trẻ em Amish. nguồn.humansarefree.com

Luật lệ

Cuộc sống của dân Amish được điều hành bởi “Quy tắc Ordnung” tiếng Đức nghĩa là “Tổ Chức”. Đây là luật bất thành văn của người Amish, trong đó nhấn mạnh sự khiêm tốn, nghe lời và giản dị. Họ phản đối bất cứ hình thức bạo lực nào, đồng thời tránh tham gia chiến tranh, quân đội. Họ cũng tránh dính líu đến pháp luật, muốn tha thứ nhiều hơn là trừng phạt. Luật lệ thay đổi tùy theo cộng đồng.

Từ chối công nghệ hiện đại

Với lối sống từ chối sử dụng mọi tiện nghi của nhân loại và trung thành với truyền thống cách đây từ hàng trăm năm, phần lớn cộng đồng người Amish bị cấm sở hữu xe hơi, không dùng điện từ các đường dây công cộng, không sử dụng các loại máy nông nghiệp tự động, không dùng tivi, đài phát thanh và máy tính, không học phổ thông và đại học, không tham gia quân đội và bài trừ việc ly hôn. Họ không được phép lắp điện thoại trong nhà, không dùng điện thoại di động. Gần đây, một số nơi cho phép người Amish sử dụng điện thoại bàn, một số nhà sẽ dùng chung một chiếc và để chúng ở một nhà kho bên ngoài nhà.

Đối với người Amish, việc chụp ảnh cũng bị cấm vì họ cho rằng điều đó nuôi dưỡng cho sự phù phiếm cá nhân. Họ tin rằng công nghệ sẽ khiến cộng đồng của mình bị đồng hóa bởi xã hội bên ngoài. “Người Amish lo sợ rằng, công nghệ và truyền thông hiện đại sẽ đưa các giá trị ngoại lai vào văn hóa của họ”, một bài báo trên trang web của Trung tâm Nghiên cứu cho biết.

Tin tức thế giới là chuyện cần thiết, nhưng họ lo sợ những giá trị khác biệt của nước ngoài sẽ xâm nhập vô nền văn hóa bảo thủ của mình.

Một số luật lệ của dân Amish gần như mâu thuẫn, chẳng hạn bình điện 12 volts của xe hơi được cho phép dùng trong nhiều cộng đồng, trong khi điện 120 volts thì cấm.

Một điều khác, dân Amish không được phép lái xe có động cơ, nhưng cho phép mướn người ngoài, như dân Mỹ lái cho họ.

Amish ở nông trại. nguồn: absolutehistory

Học vấn

Trẻ con Amish thường chỉ học tới lớp 8, hầu hết là trường tư, khoảng 10% học trường công. Họ có quyền chấm dứt đi học lúc 14 tuổi, điều này đã được Tòa Án Tối Cao Mỹ xác định theo luật năm 1972 bằng tiếng Anh và Đức của Amish.

Cộng đồng đa dạng

Dân Amish không phải là một nhóm người, họ có 4 cộng đồng khác nhau, “Nhóm đời cũ”, “Nhóm đời mới”, “Amish cách tân”, “Amish Mennonites”, còn nhiều chi nhánh phụ và theo luật lệ khác nhau từ 4 cộng đồng chính này, thí dụ như Beach Amish và Amish Mennonites dùng điện và sử dụng xe hơi, trong khi các cộng đồng khác vẫn xài xe ngựa.

Các cô Amish. nguồn: newsela

Trang phục

Y phục đơn điệu, ít màu mè, thường là trắng đen, xám, xanh là truyền thống của dân Amish, vài cộng đồng tuân thủ theo màu trắng đen, những nhóm khác thì dùng các màu nhẹ, họ ít dùng nút, vì họ cho rằng chúng có nguy cơ làm lộ cơ thể và muốn sự tự nhiên, thay vào đó áo quần dân Amish được dùng khuy thắt, móc nhỏ và ghim, những áo quần đặc biệt như áo choàng, áo khoác ngoài được dùng cho lễ nghi tôn giáo.

Quy ước

Giai đoạn duy nhất mà người Amish có thể thả lỏng và không thực hiện theo “Quy tắc Ordnung” được gọi là “rumspringa”, diễn ra trong khoảng thời gian ở độ tuổi 16, trước khi người Amish được rửa tội và chính thức gia nhập vào cộng đồng. Từ “rumspringa” trong tiếng Đức của Pennsylvania có nghĩa là “chạy rông”, vì đây là lần cuối người Amish có cuộc sống tự do trước khi vào khuôn phép. Theo truyền thống Amish, khi tới 16 tuổi, thanh niên bắt đầu quen biết, có quan hệ vui chơi bạn bè trai gái vào những ngày cuối tuần.

Đây cũng là giai đoạn quan trọng để thanh niên Amish quyết định xem họ có muốn gia nhập lâu dài vào cộng đồng hay không. Trong khoảng từ 18 đến 21 tuổi, nếu đồng ý gia nhập, họ sẽ được rửa tội. Nếu không, họ có thể rời khỏi cộng đồng người Amish.

Nông dân Amish. nguồn: wordpress.com


Thứ Hai, 20 tháng 11, 2023

NGUYỄN HIẾN LÊ TRONG CUỘC ĐỜI TÔI

NGUYỄN HIẾN LÊ TRONG CUỘC ĐỜI TÔI
Nguyễn Mộng Giác
Một sáng chủ nhật cuối năm 1984, có dịp ghé lại một hiệu sách ở quận Cam, giở tờ báo Đời số Xuân Ất Sửu tôi mới biết tin nhà văn Nguyễn Hiến Lê vừa qua đời tại Việt Nam hôm 22 tháng 12 năm 1984.
Tin đó khiến tôi lặng người bàng hoàng!
Đối với tôi, nhà văn Nguyễn Hiến Lê là một vị thầy uyên bác mà hơn một trăm cuốn sách ông đã xuất bản hướng dẫn tôi suốt các giai đoạn đời. Chẳng những thế, ông còn là một người cầm bút gương mẫu, mà dù cố gắng bao nhiêu đi nữa, tôi vẫn không bao giờ đạt được những thành quả như ông. Sự cần cù hiếu học, sự tôn trọng tinh thần khách quan và nhân bản, sự cẩn trọng đối với chữ nghĩa, đức kiên nhẫn và khiêm nhường... nói chung là những gì cao đẹp nhất ở một nhà trí thức, tôi đều tìm thấy nơi ông.
Thật ra sự kính trọng hay ái mộ đối với một người không do những điều trừu tượng như thế, mà do những cuộc gặp gỡ, những lần tâm sự, những liên lạc thân hữu, những kỷ niệm chung...
So với các bạn hữu cũng thế hệ với tôi, thì tôi đọc sách ông có hơi muộn. Thời kháng chiến chống Pháp, tôi ở vùng liên khu Năm nên mãi cho đến năm 1955, sau Hiệp định Genève tôi mới biết đến loại sách "Học làm người" của ông. Hồi đó, ở tâm trạng một học sinh trung học đệ nhị cấp và đang thời những cái mode suy tưởng du nhập từ châu Âu đang ảnh hưởng lớn lao đến tuổi thanh niên, đọc sách của ông, tôi có cảm giác khó chịu như bị ai đó đánh thức giữa lúc đang say sưa với những giấc mộng xa vời. Văn thơ thời thượng nhắc đi nhắc lại mãi những "Lưu đày", những "Nôn mửa", những "Choáng váng" những "Ngộ nhận", trong khi ông dịch Dale Carnegie để dạy chúng tôi cách xử thế sao cho khôn khéo, viết Kim Chỉ Nam Cho Học Sinh để bày cách đọc sách, cách làm phiếu ghi chép... Rồi cách kinh doanh, cách học cho giỏi toán, cách chọn một nghề, nói chung là cách học thế nào để không trở thành Con Người trừu tượng, mà học làm người có thể sống và thành công được giữa lòng xã hội.
Trong khi văn chương báo chí thời thượng đưa chúng tôi đến những thắc mắc những tìm kiếm siêu hình, thì sách "học làm người" của Nguyễn Hiến Lê đưa chúng tôi trở về những vấn đề thực tiễn trước mắt. Thú thật hồi đó tôi đã gặp ông, nhưng đã bỏ ông.
Suốt thời gian học đại học, rồi ra trường đi dạy, tôi không lưu tâm đến sách của ông nữa. Tôi vẫn giữ thành kiến là sách của ông đã lỗi thời, chỉ giúp ích cho những người hiếu học mà không có điều kiện đến trường thu nhận một thứ kiến thức có hệ thổng và trình bày mạch lạc. Sách ông, theo tôi nghĩ, thật cần thiết cho những ai "tự học để thành công" như nhan đề một cuốn sách ông viết.
Nhưng chẳng cần chờ lâu tôi đã nhận ra rằng mình lầm lẫn quá nhiều về ông. Trước hết là những sách khảo cứu và phê bình ông viết về cổ học Trung Hoa và Việt Nam, một thế giới xa xăm huyền nhiệm mà nghề dạy văn chương bắt buộc chúng tôi phải tìm hiểu. Lúc bấy giờ, tôi mới thấy những cuốn như Đại Cương Văn Học Sử Trung Quốc, Luyện Văn, Hương Sắc Trong Vườn Văn, Ngữ Pháp Việt Nam (ông viết chung với Trương Văn Chình), Tô Đông Pha, Đông Kinh Nghĩa Thục, bản dịch Sử Ký của Tư Mã Thiên, bản dịch Chiến Quốc Sách của ông và ông Giản Chi là quí giá.
Chưa hết! Ông còn giúp tôi làm quen với Somerset Mangham qua dịch phẩm những cuốn tiểu thuyết nổi tiếng của nhà văn Anh như Lưỡi Dao Cạo (The Razor's Edge), Kiếp Người (Of Human Bondage), hay tập truyện ngắn Mưa; giúp tôi cảm phục thêm tài viết tiểu thuyết của văn hào Nga Leb Tolstoi với bản dịch bộ trường thiên tiểu thuyết Chiến Tranh Và Hoà Bình; giúp tôi nhận ra được tinh thần minh triết của hai nhà văn hóa André Maurois và Will Durant; giúp tôi lấy lại được niềm vui cuộc sống khi gặp những điều rủi ro với bản dịch cuốn The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường (nhan đề bản dịch là Một Quan Niệm Về Sống Đẹp). Hai trong năm cuốn sách ảnh hưởng quan trọng đến cuộc đời tôi là cuốn The Importance of Living của Lâm Ngữ Đường và Lessons of History của Will Durant. Cả hai cuốn đó đểu do Nguyễn Hiến Lê dịch ra Việt ngữ.
Từ đó về sau, Nguyễn Hiến Lê hiện diện thường xuyên trong cuộc đời tôi. Càng về sau, tầm nghiên cứu của ông càng rộng, khả năng tổng hợp và nhận định của ông càng bao quát, và với cái nhìn minh triết nhân bản, lúc nào ông cũng giúp tôi hiểu rõ được mấu chốt của từng vấn để. Đọc sách ông viết, tôi tìm được cảm giác lâng lâng yêu đời và lòng từ ái bát ngát, giống y như lúc tôi đọc những cuốn sách của André Maurois và Will Durant. Về sau, khi đã quen thân với Nguyễn Hiến Lê, tôi được ông xác nhận rằng hai tác giả đó là mẫu mực mà ông luôn luôn mong ước vươn tới.
Năm 1971, sau một thời gian thiếu tự tín và tìm kiếm chính mình, tôi bắt đầu mạnh dạn viết lách. Đó cũng là thời tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung đang hồi thịnh hành nhất, nên tôi viết một tiểu luận ngắn nhan đề Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung. Tập tiểu luận viết xong đã lâu, một phần có cho đăng ở báo nhà trường hoặc báo in ronéo của thân hữu, nhưng tôi vẫn loay hoay chẳng biết làm gì với tập bản thảo mỏng này. Rồi một người bạn, chẳng hiểu do kinh nghiệm cá nhân hay do đâu, bảo tôi nên gửi bản thảo nhờ Nguyễn Hiến Lê đọc hộ.
Tôi làm theo lời khuyên của bạn, và đúng một tuần sau, tôi nhận được lá thư đầu tiên của Nguyễn Hiến Lê gửi từ địa chỉ đường Kỳ Đồng Sài Gòn. Lá thư dài đến ba trang giấy chữ nhỏ viết cẩn thận rõ ràng, trong đó ông thú thật lâu nay không thích đọc các truyện chưởng Kim Dung. Tuy nhiên ông nhận thấy những điều tôi ghi nhận về tư tưởng Kim Dung đều đúng. Chưa hết. Ông tỉ mỉ ghi nhận những chỗ tôi viết chưa chính xác, những lỗi chính tả cần sửa. Nhận lá thư đó, tôi sửng sốt và cảm động đến bàng hoàng. Tôi chưa bao giờ tưởng tượng một người cầm bút tiếng tăm như Nguyễn Hiến Lê lại chịu khó ngồi đọc thật kỹ tập bản thảo của một người trẻ xa lạ và sau đó chịu khó ngồi viết thư phúc đáp, với những lời phê bình tỉ mỉ cẩn trọng, chứ không phải chỉ là những câu cảm ơn đãi bôi. Nếu trừ đi hai ngày thư đi và hai ngày thư về, tôi tính nhẩm, ông Nguyễn Hiến Lê đã dành ba ngày để đọc và góp ý kiến về bản thảo Nỗi Băn Khoăn Của Kim Dung của tôi. Hai tuần sau, tạp chí Bách Khoa đăng chương đầu của tập bản thảo, và sau này anh Lê Ngộ Châu xác nhận rằng chính ông Nguyễn Hiến Lê đã đưa lại cho tòa soạn. Đó là lần đầu tôi có bài đăng trên Bách Khoa, tháng Chín năm 1971.
Từ đó các bài nhận định tổng kết tình hình văn học cuối năm, những truyện ngắn, truyện dài của tôi liên tiếp xuất hiện trên Bách Khoa, do tôi trực tiếp gửi đến tòa soạn. Tháng 11 năm đó, có dịp vào công tác ở Sài Gòn, ghé tòa soạn Bách Khoa, anh Lê Ngộ Châu rủ tôi đi thăm Nguyễn Hiến Lê. Đây là lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau, tại căn nhà yên tĩnh sau lưng ngôi chùa ở đường Kỳ Đồng.
Căn phòng khách đó có vẻ biệt tịch khác thường mà bất cứ ai bước chân đến một lần về sau không bao giờ quên được. Một bộ xa-lông xếp đặt mỹ thuật, ngăn nắp. Bức tranh Tàu vẽ ngựa ở bức tường đối diện cửa ra vào. Tranh thầy đồ dạy học ở bức tường phía tay phải. Tiếng dép bước nhẹ ở cầu thang. Một ông già thân hình ốm, khuôn mặt xương xương, đôi mắt sáng quắc, mặc bộ đồ bà ba mầu trắng. Hộp thuốc rê với những mẩu giấy vấn cắt phân nửa khổ giấy vấn thông thường. Những lời thăm hỏi chân tình. Những nhận xét về những điều đã đọc. Cảnh sống ấy, lối sống ấy , tôi mơ ước biết bao nhiêu năm mà không bao giờ, phải, có lẽ không bao giờ có được. Cuộc sống đơn giản, yên tĩnh để sống trọn với sách vở. Niềm hạnh phúc có được một căn phòng riêng, một bàn viết khuất tịch, khỏi quá lo lắng cơm áo để chỉ viết sách cũng đủ sống và sống để viết sách. Giấc mơ ngàn năm, giấc mơ viển vông của biết bao người cầm bút, mà Nguyễn Hiến Lê đã có được.
Về sau khi đã trở nên thân tình trong không khí ấm cúng của gia đình Bách Khoa, tôi mới biết để thực hiện được giấc mơ đó, Nguyễn Hiến Lê đã có những quyết định khác thường và sự cần cù kiên nhẫn phi thường. Ông đã từng phải lựa chọn giữa hai ngả đường: một bên là đời sống phẳng lặng ổn định của một công chức nhà nưởc, một bên là cuộc sống bạc bẽo thiếu thốn của một người cầm bút chân chính.
Ông đã chọn con đường thứ hai, thôi làm công chức để dành trọn thì giờ viết sách và lo cho nhà xuất bản Nguyễn Hiến Lê. Tính đến cuối năm 1974, ông đã in được 100 cuốn sách đủ loại: biên khảo, dịch thuật, sáng tác, và cuốn nào cũng được viết với một sự cẩn trọng tối đa. Tôi đã từng thắc mắc chẳng hiểu ông tìm được đâu ra thì giờ mà viết được chừng ấy sách. Và tôi đã tìm ra câu trả lời. Ông tự đặt cho mình một thứ kỷ luật sắt và theo đúng được thời khóa biểu làm việc một ngày tám tiếng suốt mấy mươi năm. Một cây bút Bic, bốn tờ giấy trắng có lót giấy than, ông lần lượt viết tay như thế hết cuốn này đến cuốn khác, bất kể mưa nắng, bất kể mạnh khỏe hay đau yếu, ngày nào vì lý do bất khả kháng không viết được thì ngày hôm sau viết bù, cứ như vậy, ông viết, dịch, ghi chép, tìm tài liệu...Cứ tưởng tượng một cụ già mảnh khảnh đau yếu ngồi ở bàn viết hết năm này đến năm khác lần lượt dịch hết bộ Chiến Tranh Và Hoà Bình rồi Sử Ký Tư Mã Thiên, Chiếc Cầu Trên Sông Drina, Vinh Nhục Một Đời, khảo về Văn Minh Trung Hoa rồi đến Văn Minh Ấn Độ, tìm cho được Bài Học Do Thái, tìm hiểu Kinh Dịch rồi tìm hiểu tương lai nhân loại năm 2000, cuộc đời Tô Đông Pha...Bấy nhiêu công việc ôm đồm một mình làm hết trong một đời người, hoàn toàn tự nguyện, không ai ép buộc. Vậy mà vẫn còn thì giờ để đọc rất kỹ bất cứ bản thảo hay cuốn sách của bất cứ người viết trẻ vô danh nào gửi tới tặng và xin ý kiến.
Sau năm 1975, Nguyễn Hiến Lê vẫn tiếp tục làm việc một ngày tám tiếng cho những tác phẩm dự định biên soạn từ trước. Ông tìm hiểu và khảo cứu trở lại cả nền triết học Trung Hoa. Lúc tôi rời Việt Nam, cuối năm 1981, ông đã viết xong cuốn khảo cứu Kinh Dịch, và Đạo Đức Kinh. Ông cũng đã sửa chữa và hoàn tất tập hồi ký về cuộc đời viết văn của mình. Lúc nào tôi đến ngôi biệt thự yên tĩnh ở đường Kỳ Đồng để thăm ông, Nguyễn Hiến Lê vẫn hiện ra y như lần đầu tiên tôi gặp: bộ bà ba trắng, đôi mắt tinh anh sáng quắc, những lời thăm hỏi ân cần, điếu thuốc rê nhỏ xíu bên mép và những cuốn sách ông đang viết hay sắp viết.
Năm 1980, sau khi viết được 1000 trang nửa đầu bộ trường thiên tiểu thuyết Sông Côn Mùa Lũ đề tài là cuộc đời vua Quang Trung từ thời hàn vi cho đến lúc mất, tôi mang xấp bản thảo dầy cộm đến nhà Nguyễn Hiến Lê nhờ ông đọc hộ. Dù bận viết cho xong bộ Kinh Dịch, ông vẫn vui vẻ nhận xấp bản thảo, hẹn một tháng sẽ trả lại cho tôi. Đúng một tháng sau, đến thăm ông, ông đưa cho tôi tập bản thảo với những lời ghi chú phê bình bằng bút chì rất cẩn thận chi tiết. Chẳng hạn ở đoạn tôi tưởng tượng Nguyễn Nhạc (lúc bấy giờ trên ba mươi tuổi) gửi hai cậu em Lữ và Huệ xuống An Thái học chữ nho thầy giáo Hiến, tôi có tả cảnh ông anh cả đưa cho Nguyễn Lữ số tiền 50 quan. Nguyễn Lữ đưa tay nhận món tiền của anh, cúi đầu nghe những lời căn dặn, rồi từ biệt ra đi.
Nguyễn Hiến Lê lưu ý tôi về số tiền 50 quan này. Vì căn cứ theo Phủ Biên Tạp Lục của Lê Quí Đôn, thì hồi đó ở phủ Qui nhơn tiền lưu hành hầu hết là tiền kẽm, lại là thứ tiền kẽm xấu nặng trình trịch dễ mục dễ vỡ. Năm mươi quan mà tính theo tiền kẽm phải là một xâu tiền nặng, cho nên không thể có cảnh Nguyễn Lữ đưa tay khơi khơi nhận 50 quan của Nguyễn Nhạc được. Cả hai cậu em Huệ Lữ phải khệ nệ mất nhiều sức lắm mới xách nổi xâu tiền. Nên ông đề nghị tôi rút bớt số tiền xuống cho hợp lý.
Lần nào tới thăm ông, tôi đều được học những bài học bất ngờ như vậy. Và mỗi lẫn gặp ông, tôi đều nhớ lại hai câu thơ cổ:
Khẳng khái cần vương dị
Thung dung tựu nghĩa nan.
Vâng, ông là người không ồn ào, không phô trương hào nhoáng, không cố làm cho người đời thấy mình rực rỡ lóng lánh mà chỉ lặng lẽ làm việc, thung dung đạt được điều nghĩa.
Niềm tin tưởng ở công việc mình làm nơi ông lớn lao quá, đến độ cuộc sống và thời cuộc không ảnh hưởng nhiều đến ông. Giữa một xã hội chữ nghĩa mất giá, ông vẫn giữ trọn niềm trân trọng đối với chữ nghĩa.
Tôi cho đó là bài học lớn tôi học được nơi ông.
*_* Nguồn:
NGUYỄN MỘNG GIÁC - Nguyễn Hiến Lê trong đời tôi. - Gặp Lại Thương Yêu - Du Tử Lê
*_* Đọc thêm
NGUYỄN HIẾN LÊ
GƯƠNG TỰ HỌC CHO MỌI NGƯỜI



Thứ Tư, 2 tháng 8, 2023

"NGƯỜI EM SẦU MỘNG" CỦA THI SĨ LƯU TRỌNG LƯ LÀ AI ?

 "NGƯỜI EM SẦU MỘNG

CỦA THI SĨ LƯU TRỌNG LƯ LÀ AI? 

 Tôn Thất Thọ


Bà Phùng Thị Cúc, sinh năm 1920 là một người con gái xứ Huế. Trong tập Hồi ký có tựa Nửa đêm sực tỉnh (Nxb Thuận Hóa, 1989), nhà thơ Lưu Trọng Lư kể: Khi đó, Phùng Thị Cúc là một cô nữ sinh từ Huế ra Hà Nội học. Trên chuyến tàu tốc hành Huế – Hà Nội, cô được người chị là bạn của Lưu Trọng Lư gửi gắm nhà thơ trông nom giùm em gái với lời dặn thân tình “dọc đường giúp em một chút”. Cúc là cô gái Huế sang trọng, đài các, hoa khôi củaTrường Đồng Khánh Huế đã hút hồn nhà thơ đa tình ngay từ phút đầu gặp gỡ. Suốt chặng đường dài, hai người cũng chẳng có chuyện gì nhiều để nói với nhau. 

 <!>

Cúc im lặng ngắm cảnh dọc đường và nhà thơ thì lẳng lặng nhìn ngắm giai nhân. Khi tàu về đến ga Hà Nội, thay vì chia tay nhau nhưng nhà thơ đã hỏi địa chỉ và tình nguyện đưa cô đến tận nơi.




                                                         Phùng Thị Cúc

Tìm đến đúng địa chỉ, ông đưa Cúc lên tận căn gác nhỏ, nơi có căn phòng của những người bạn, người chị của cô đang ở. Chào hỏi, dặn dò rồi chia tay. Khi vừa xuống gác, ra đến đường thì tình cờ nhà thơ gặp thi sĩ Phạm Hầu. Phạm Hầu mời Lư vào nhà chơi. Khi lên gác, bước vào một căn phòng, mở cửa sổ ra, nhà thơ giật mình khi nhìn thấy người bạn đường xinh đẹp mà mình vừa chia tay ít phút trước đây đang ở ngay bên khung cửa sổ căn phòng đối diện!

Vậy là không một chút đắn đo, Lư quay sang nói ngay với bạn: “Mình ở luôn đây với cậu được không?”. Phạm Hầu nhiệt tình vui vẻ đồng ý. Suốt mùa đông năm đó, giữa cái giá lạnh của tiết trời Hà Nội, nhà thơ đã được sống trong sự ấm áp dịu nhẹ của một mối tình sáng trong, thơ mộng. Và cũng từ đấy bài thơ Một mùa đông của Lưu Trọng Lư đã ra đời với những câu thơ bất hủ như:

Đôi mắt em lặng buồn

Nhìn thôi mà chẳng nói,

Tình đôi ta vời vợi 

Có nói cũng không cùng…

Ở căn phòng bên này, cô gái cũng không thể vô tình bởi ngay lần đầu tiên, khi nhà thơ nhìn qua cửa sổ đã bắt gặp đôi mắt Cúc mở to, sững sờ nhìn người anh “dẫn đường” rồi sau đó bối rối mỉm cười rời khỏi khung cửa. Sau này, thật lạ lùng mỗi khi nhà thơ bất thần mở cửa sổ lại nhìn thấy Cúc khi thì đang ngồi đọc sách ôn bài, khi thì đang cắm một lọ hoa. Cũng có khi Cúc chẳng làm gì, ngồi suy tư mơ mộng. Cũng có khi nghe một tiếng ho nhẹ, nhà thơ mở hé cửa nhìn sang lại bắt gặp nụ cười bối rối, e thẹn của người đẹp. Cũng có lần khi mở cửa sổ, nàng không hề ngước lên nhìn cho đến lúc cánh cửa như tự nó khép lại. Lại có lần không biết vì chuyện gì, Cúc ném sang bên này một cái nhìn hờn giận, trách móc khiến nhà thơ ngơ ngẩn suốt một buổi chiều.

Mọi việc dường như chẳng có gì khác lạ: Cửa sổ mở rồi lại đóng, đóng rồi lại mở. Thế nhưng sự trông đợi nhớ nhung đã thấm vào gan ruột từng ngày từng ngày một. Làm sao có thể nhớ hết được biết bao lần Cúc đã vào trong giấc mơ của thi sĩ đa tình, đã trở thành nguồn cảm hứng cho bài thơ Một mùa đông ra đời. Bài thơ gồm những đoạn kể lại một chuyện tình trong mộng ảo mà thấm đẫm những nỗi đau có thật.

Yêu hết một mùa đông

Không một lần đã nói,

Nhìn nhau buồn vời vợi

Có nói cũng không cùng.


Trời hết một mùa đông

Gió bên thềm thổi mãi,

Qua rồi mùa ân ái:

Đàn sếu đã sang sông.


Em ngồi trong song cửa

Anh đứng dựa tường hoa,

Nhìn nhau mà lệ ứa,

Một ngày một cách xa.


Đây là dải Ngân Hà,

Anh là chim Ô thước

Sẽ bắc cầu nguyện ước

Một đêm một lần qua…


                                                                 Lưu Trọng Lư

Nhà thơ đã lý giải thật tài tình tâm trạng và nỗi lòng của mình. Có lẽ đây là đoạn thơ có những câu thơ ấn tượng hơn cả:

Em chỉ là người em gái thôi,

Người em sầu mộng của muôn đời,

Tình em như tuyết giăng đầu núi,

Vằng vặc muôn thu nét tuyệt vời.


Ai bảo em là giai nhân

Cho đời anh đau khổ?

Ai bảo em ngồi bên cửa sổ

Cho vướng víu nợ thi nhân?

Thật thú vị khi được biết rằng trong bài thơ lãng mạn này lại chứa đựng những câu chuyện hoàn toàn có thực. Nhà thơ kể rằng, sau một thời gian sống cạnh nhau, tình cảm của hai người cũng có “bước phát triển” mới. Theo sự sắp đặt của những người bạn, có lần hai người đã đi chơi Chùa Thầy cùng với một nhóm bạn. Sau một hồi leo núi, nhìn chung quanh chẳng thấy ai, chàng và nàng ngượng ngập đi bên nhau. Đến trưa cả nhóm mới trở lại sân chùa cùng ăn trưa. Bữa trưa có gà quay và rượu vang Pháp. Bắt chước mọi người, Cúc cũng uống vài ly rượu nho. Đôi má ửng hồng và cặp môi nhuốm màu nho chín, rơi trên trán vài lọn tóc đen nhánh… Tất cả đã tạo thành một hình tượng nghệ thuật có sức ám ảnh lớn:

Ngày hôm tiễn biệt buồn say đắm

Em vẫn đùa nô uống rượu say.

Em có biết đâu đời vắng lạnh,

Lạnh buồn như ngọn gió heo may.


...Tuy môi em uống, lòng anh say,

Lời em càng nói càng chua cay

Anh muốn van em đừng uống nữa,

Lệ buồn sẽ nhỏ trong đêm nay…

Nhưng câu chuyện tình thơ mộng của họ cũng chỉ đi đến đó. Họ mãi mãi chỉ là đôi tình nhân giữa một nghìn trùng xa cách vì rất nhiều lý do. Mãi đến năm 1975 họ mới có dịp gặp lại nhau. Lúc đó Phùng Thị Cúc từ Paris về Hà Nội. Người em gái bé bỏng ngây thơ hôm nào bây giờ là bà Điềm Phùng Thị – một Điêu khắc gia nổi tiếng thế giới.

Điềm Phùng Thị

Tìm hiểu thêm sự nghiệp của bà Điềm Phùng Thị thì được biết: năm 1946, bà tốt nghiệp Bác sĩ Nha khoa tại Hà Nội, nhưng không lâu sau đó, vì mắc phải một cơn bạo bệnh, bà được đưa sang Pháp điều trị. Tại Pháp, sau khi khỏi bệnh, bà tiếp tục theo đuổi con đường học tập, nghiên cứu và bảo vệ luận án Tiến sĩ Nha khoa. Trong khoảng thời gian này, bà đã cùng một người bạn mở một phòng khám nha tại Paris. Tại đây bà đã gặp, yêu và kết hôn cùng ông Bửu Điềm, vốn là một bác sĩ đang sống ở Pháp. Cái tên Điềm Phùng Thị của bà cũng ra đời từ đó khi họ của bà được ghép cùng tên của chồng.

Sau khi lấy được tấm bằng tiến sĩ, thay vì cống hiến cho sự nghiệp khoa học, bà lại bước vào thế giới nghệ thuật với rất nhiều điều lạ lùng. Đến với điêu khắc từ 1959 khi vừa 40 tuổi, bà vừa làm phòng mạch, vừa tự học điêu khắc. Ít lâu sau, để hoàn thiện bà ghi danh theo học điêu khắc tại xưởng của điêu khắc gia Volti ở Paris.



Năm 1966, bà có triển lãm riêng đầu tiên tại Galerie des Jeunes, Paris. Tượng Mẹ và con của bà đã hoàn toàn chinh phục được công chúng thưởng lãm. Chính phủ Pháp đã quyết định mua bức tượng để đặt trong một công viên trẻ em.

Thành công từ bức tượng đầu tiên ra mắt công chúng yêu nghệ thuật, bà bắt tay vào làm nhiều tượng mới để một năm sau đó bà lại có cuộc triển lãm tại Galerie Kasler ở Copenhague, Đan Mạch, và sau đó là các cuộc triển lãm riêng và chung ở nhiều nơi khắp châu Âu.

Bà cũng là người có nhiều sáng tác thơ văn. Bài thơ “Marie, em vẫn đẹp!”” do bà sáng tác lúc về an dưỡng tại quê nhà:

“Và nếu có ai đó ngắm nhìn

dừng chân và cảm mến

con người trong tôi

tức là tôi đã thành công

 

Nếu tôi thất bại và chẳng ai chìa tay cho tôi

tôi sẽ đút tay vào túi, thật sâu

mặc kệ không sao đâu,

Marie, em vẫn đẹp như thường!”


Tháng 2/1994, Nhà Điềm Phùng Thị ở số 1 Phan Bội Châu, Huế chính thức khánh thành. Đây là nơi ở cuối đời và cũng là nơi trưng bày hơn 200 tác phẩm của bà. Trước khi qua đời vào năm 2002, bà quyết định chuyển toàn bộ tác phẩm còn lại ở Sài Gòn (trên 130 tác phẩm) và ở Pháp (trên 50 tác phẩm) về Huế. Đây thật sự là món quà vô giá mà bà gửi tặng quê hương trước khi đi vào cõi vĩnh hằng…


Người Em Sầu Mộng (Y Vân, thơ: Lưu Trọng Lư) PBN 106





Ý Lan - Người Em Sầu Mộng (Y VânthơLưu Trọng Lư) Paris By Night 106 - Lụa©2012 published by Thuy Nga under license**Các video trên Thuy ...
YouTube · Thuy Nga · 20 thg 3, 2018

Tôn Thất Thọ / Theo: dangnho



Posted by: lpk 116