Thứ Ba, 27 tháng 7, 2021

CHUYỆN CHỈ CÓ Ở MỸ

CHUYỆN CHỈ CÓ Ở MỸ

Hồ Duy Thiện

Xã hội nào cũng có những chuyện tốt và không tốt hay thậm chí là xấu. Hình như ở thời đại này, người ta thường dùng danh từ chuyện tích cực hay chuyện tiêu cực để gọi chuyện tốt hoặc chuyện xấu.

Sống ở xứ Mỹ đã 46 năm, tôi thấy rõ ràng chuyện tích cực thường xảy ra nhiều hơn chuyện tiêu cực nhưng không hiểu sao có nhiều người cứ thường xuyên ta thán những chuyện tiêu cực mà ít khi nào nghe họ nhắc tới những chuyện tích cực ở xứ này. Hay là họ muốn tiếp tay với nhà cầm quyền CS Việt Nam để rêu rao rằng ở cái xứ tư bản giãy chết này toàn chuyện xấu? Hãy ở lại với xứ thiên đường XHCN chứ đừng nên tính chuyện chạy đi đâu. Trong khi đó, nhờ tham nhũng bao lâu nay, các quan chức lớn đã chi ra bạc triệu đôla để mua hộ chiếu nước ngoài, chờ ngày tàu chìm, chuột chạy.

Điển hình là hôm nay, tôi đi lấy cặp kính mới làm, nhân tiện ghé qua Kroger gần nhà mua vài món lặt vặt. Thấy cam Navel Orange giá $3.99 một bịch tám trái lớn cỡ trung nên tôi mua một bịch. Khi đi ngang qua máy tính tiền tự động (self checkout), nó tính tôi $4.99. Biết là không thể “cãi” với cái máy nhưng mà cũng có thể là tôi đã nhìn lầm nên tôi cứ hoàn tất việc trả tiền. Ngay khi đó, người nhân viên đứng gần chuyên môn giúp các khách hàng sử dụng loại máy tự động này, nói với tôi: “Ông ơi, thuốc rửa tay (hand sanitizer) đang để sau lưng ông là miễn phí (free). Ông đừng quên lấy vài chai về nhà dùng nhé”.


Trở lại quầy bán cam, thấy rõ ràng giá là $3.99, tôi bèn chụp tấm hình vô cellphone, phòng hờ nếu cần sẽ dùng để làm bằng chứng. Tôi trở lại văn phòng customer service để khiếu nại. Một nhân viên yêu cầu tôi cho xem biên lai và bịch cam rồi cô ấy làm việc liền. Chỉ một phút sau, cô ta nói tôi đưa cái credit card mà tôi dùng trả tiền để cô ấy refund vô credit card cho tôi. Tôi hỏi: “Cô trả lại cho tôi bao nhiêu?”. Cô ấy nói: “$4.99, the full amount you paid for it” (trọn vẹn số tiền của bịch cam mà ông đã mua). Tôi thừa biết lý do tại sao nhưng cũng giả bộ hỏi: “Why?”. Cô ấy giải thích: “Thưa đó là policy của chúng tôi. Nếu chúng tôi tính tiền lộn thì ông sẽ được món đồ free (không tính tiền)”. Tôi biết có nhiều tiệm buôn lớn có policy như vậy để nhân viên phải làm việc rất cẩn thận về giá cả. Giá ở ngoài quầy phải giống với giá trong máy tính tiền. Mục đích là để không làm thiệt hại cho khách hàng và hơn nữa, là làm vui lòng người khách khi bị tính tiền lầm.

Chỉ có ở những nước mà sự mua bán được tự do cạnh tranh mới có chuyện này xảy ra. Còn ngược lại, ở những nước bán hàng trong những cửa hàng quốc doanh thì người đi mua hàng giống như kẻ ăn xin, còn người bán hàng như thể là quan chức cao cấp. Làm gì có chuyện phải làm vừa lòng khách. Khác nhau quá lớn giữa hai chế độ: tự do kinh doanh (free enterprise) hoặc kinh tế tập trung (centralized economy) vô tay nhà nước.

Còn nhớ lại cách đây khoảng một năm, khi tình trạng Covid-19 đang phát ra nặng nề, người ta đổ xô đi mua thuốc rửa tay và vài vật dụng khác, không dễ gì tìm được một chai thuốc rửa tay ở trên quầy nhưng chỉ khoảng một tháng sau, thuốc rửa tay có thể mua được dễ dàng. Còn hôm nay thì thuốc rửa tay cho không. Viết bằng thông báo chưa đủ, nhân viên còn phải đến nhắc nhở khách hàng đừng quên lấy vài chai về dùng! Có nơi nào trên thế giới được như vậy không, các bạn?

Trên đường đi ra, ngang qua quầy pharmacy, một bảng thông báo khá to viết: Covid-19 vaccine is free for everyone. No need to make appointmentJust walk in for the vaccine (Thuốc chủng Covid-19 được chích miễn phí cho tất cả mọi người. Không cần phải lấy hẹn. Cứ bước vào để được chích ngay). Tôi đã chích hai mũi Covid-19 vaccine từ hồi tháng hai cũng tại đây. Cách đây hai tuần, Kroger gửi message đến cellphone của tôi kêu gọi ghi danh online để xổ số. Nếu may mắn, tôi có thể trúng $1 triệu nhờ đã chích vaccine trước đây. Có xứ nào trên thế giới, người dân được quan tâm như thế này không, các bạn?

Nãy giờ, mới nói chuyện nho nhỏ và chuyện vừa vừa. Bây giờ nói chuyện lớn hơn: chuyện chính trị ở xứ Mỹ. Tôi tin rằng ai cũng biết, không ở đâu có một nền chính trị tốt tuyệt đối cả. Ngay ở xứ Mỹ này, có hai chính đảng: Dân Chủ và Cộng Hòa. Đảng nào cũng có những chuyện tốt để khen và chuyện xấu để chê. Đó là những chuyện xấu và tốt do những tờ báo đứng đắn và trung lập viết ra. Còn những tờ báo đã nghiêng hẳn về một đảng thì miễn bàn hay miễn đọc lại càng tốt.

Dù tốt hay xấu nhưng nền chính trị ở Hoa Kỳ có một điểm vô cùng tuyệt vời mà rất nhiều người không thấy, không biết hay đã quên. Đó là ở đây, người ta có hai chính đảng và vài đảng chính trị nho nhỏ. Mỗi đảng muốn thắng cử trong kỳ bầu cử sắp tới đều phải cố gắng làm những chuyện tốt cho đất nước, cho người dân (cử tri). Không phải như những nước độc tài và độc đảng như Việt Nam vì biết không có ai cạnh tranh, chính trị gia hay người cầm quyền toàn quyền định đoạt, dù hay hay dở, trúng hay trật, cũng vẫn nắm quyền suốt đời. Rốt cuộc, người dân lãnh đủ biết bao nhiêu những điều bất hạnh, còn quan chức và gia đình càng ngày càng giàu có. Có nơi nào tốt hơn nước Mỹ này không?

BÀN VỀ THƠ "THANH MÀ TỤC"

 BÀN VỀ THƠ "THANH MÀ TỤC"


Thơ Việt ngữ dùng chữ Hán Nôm để nói lẫn lộn "thanh và tục" có 2 kỹ thuật chính:
Tả một sự vật "thanh" (hay "không tục") nhưng làm cho độc giả nghĩ tới hay thấy như một sự vật "tục" khác. Thí dụ như tả Cái Quạt nhưng làm cho độc giả thấy cũng giống như Âm Hộ. Thí dụ như tả Đá Gà nhưng làm cho độc giả nghĩ tới Giao Hợp (nam nữ).
Dùng từ ngữ có thể nói lái được. Thí dụ: "Hỏi thăm sư cụ đáo nơi neo?" (trong bài Chơi Chùa Quán Sứ). Đáo nơi neo = đến nơi nào (có nghĩa không tục); nhưng "Đáo nơi neo" nói lái là "Đéo nơi nao" (có nghĩa tục).
***
Bài Cái Quạt của Hồ Xuân Hương trong văn bản chỉ có 4 câu (theo bản Quốc Văn tùng ký)
Một lỗ xâu xâu mấy cũng vừa,
Duyên này tác hợp tự ngàn xưa.
Chành ra ba góc da còn thiếu,
Khép lại đôi bên thịt vẫn thừa.
Các bản chữ quốc ngữ sau này có thêm 4 câu nữa:
Mát mặt anh hùng khi tắt gió,
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch trong lòng đã sướng chưa.
Đây là bài thơ dùng kỹ thuật 1: tả một sự vật "thanh" (Cái Quạt) nhưng làm cho độc giả nghĩ tới một sự vật "tục" khác (Âm hộ).
Tuy nhiên, 2 câu Luận (5 và 6) tả Cái quạt không đúng: Cái quạt làm gì có "da" và nhất là làm gì có "thịt". Âm hộ thì có da và có thịt, như vậy bà Hồ Xuân Hương không có tả Cái Quạt mà tả Âm Hộ một cách rõ ràng. Và như vậy không còn nghệ thuật "thanh mà tục" nữa!
Có thể 4 câu sau (bản chữ Quốc ngữ) là thơ của hậu thế thêm vô?
***
Hồ Xuân Hương làm thơ dùng chữ Hán Nôm thường chỉ có 2 kỹ thuật nầy nhưng không làm được kỹ thuật thứ ba.
Thơ Việt ngữ dùng chữ Quốc ngữ dùng được cả 3 kỹ thuật.
Kỹ thuật thứ ba là dùng 1 chữ Quốc ngữ có 2 nghĩa (vì chữ Quốc ngữ là tượng thanh). Thí dụ: chữ "Cu" có 2 nghĩa.
Thi nhân thơ Quốc ngữ có dùng kỹ thuật mới nầy mà bà Hồ Xuân Hương không làm được vì thời của bà (cuối thế kỷ 19) chưa có chữ Quốc ngữ trong quần chúng.
Đây là những bài thơ "thanh và tục" theo kỹ thuật thứ ba.
Cu = thằng cu - con cu (penis)
CU CỤ (Độc vận - Nguyên Bản)
Thế sự đảo huyền chuyện Cụ Cu
Lộn sòng “thằng Cụ” với “ông Cu”
Cu “Quân Tử Kiếm” là Cu Cụ (*)
Cụ “Lão Ngoan Đồng” ấy Cụ Cu (*)
Ra chốn đình trung ưng gọi Cụ
Giữa vòng hương phấn muốn là Cu
Giai nhân có hỏi Cu hay Cụ
“Lục thập niên tiền…” Cụ vốn Cu.
(Vô Danh Thị)
(*) Chú thích:
Quân Tử Kiếm Nhạc Bất Quần tự thiến để luyện võ công (Tiếu Ngạo Giang Hồ/Kim Dung).
Lão Ngoan Đồng Châu Bá Thông lớn tuổi nhưng tánh vẫn như con nít (Anh Hùng Xạ Điêu/Kim Dung).

CU CỤ (Độc vận - Họa)
Tuy khác danh xưng: Cụ hoặc Cu
Tính tình vui vẻ, Cụ như Cu
Thà tiêu xí quách Cu theo Cụ
Biết sướng cuộc đời Cụ chỉ Cu
Cu tưởng lão làng lên giọng Cụ
Cụ ham già dịch tại thằng Cu
Cu không thế phát thành Sư Cụ
Như Cụ hồn nhiên cứ “Cúc Cu”.(*)
(Phan Thượng Hải)
4/18/12
(*) Chú thích: Cúc cu có 2 nghĩa: Nắm cu (cúc = nắm) và tiếng con chim kêu "cúc cu".

CU CỤ (Độc vận - Họa)
Bàn loạn cho vui chữ Cụ Cu
Vợ thương vợ gọi: “bố anh Cu”
Thằng Cu nặng lớn thành ra Cụ
Ông Cụ nhẹ già chuyển hóa Cu
Người Việt phân chia Cu với Cụ
Dân Tây lẫn lộn Cụ và Cu
Tơ vò rắc rối Cu hay Cụ
Cu Cụ giống nhau chỗ có Cu.

(Hp-Trương Ngọc Thạch)
10/20/13

BS Phan Thượng Hải 
Biên soạn và giữ bản quyền

Thứ Bảy, 24 tháng 7, 2021

TÌNH NHƯ LÁ THU

(truyện tình...già)

Nguyễn Thị Bích Nga (Westminter)

Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi nhưng với mái tóc nhuộm đen nhánh, với hàng lông mày được xăm theo hình lá liễu cong cong, với cặp môi tô son đỏ – màu của sự gợi cảm, người đối diện nghĩ rằng bà chừng bảy mươi lăm là cùng.

Vốn là nhà thời trang nổi tiếng của thành phố Sài Gòn trước đây, bà cố gắng ăn uống điều độ và tập thể dục hàng tuần để thân hình không phì nhiêu cũng không nhão nhẹt. Trời cũng không phụ lòng mong đợi của bà. Càng nhìn bà, người ta càng kinh ngạc, cứ tưởng thời gian đã quên đi, không hề nhớ tới sự hiện hữu của bà trên cuộc đời này.

Cách đây tám năm, chồng bà mất. Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba đúng là một bi kịch. Ban ngày bà loay hoay đi ra đi vào một mình, ban đêm bà trằn trọc không ngủ vì nhớ tiếng ho nhè nhẹ của ông, nhớ tiếng dép lẹp xẹp trên sàn gỗ, nhớ tiếng nước chảy vào ly thủy tinh mỗi khi ông rót trà... Mất chồng ở tuổi bảy mươi ba, bà không khóc lóc như những phụ nữ trẻ tuổi, bà chỉ bàng hoàng trong im lặng, đôi mắt bà ráo hoảnh nhưng đôi môi bà cứ run run như muốn gọi tên ông.

Rồi những ngày tháng lạnh lùng kinh khủng đó đóng chặt lại và trở thành quá khứ sau khi bà gặp ông Luân trong một cuộc tiệc cưới cháu ngoại của người bạn. Hôm đó bà ngồi bên cạnh một người đàn ông có mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ, có giọng nói chậm rãi nhưng ấm áp, có sự quan tâm chăm sóc đặc biệt tới bà khiến bà cảm thấy lạ lùng trước điều đó. Ông Luân chỉ phục vụ một mình bà, thỉnh thoảng ông gắp thức ăn để vào trong chén của bà, ông hỏi bà ngon miệng không, ông lựa những phần gỏi bắp cải không có ớt vì sợ bà cay, thậm chí ông thận trọng lột vỏ từng con tôm xú luộc rồi đưa bà ăn. Bà cảm kích nên hỏi tên ông, hỏi tuổi ông. Ông không giấu diếm, ông nói ông đã bảy mươi bảy tuổi rồi.

Bà nhìn ông cười, ánh mắt lẳng lơ:

- Bảy mươi bảy tuổi còn yêu được không nhỉ?

Ông Luân cũng nheo nheo mắt nhìn bà, cười đáp lại:

- Sao lại hỏi vậy? Cứ yêu thử đi rồi biết.

Tối hôm đó bà đi lòng vòng trong cư xá nửa tiếng đồng hồ để suy nghĩ thật chín chắn rồi quyết định gọi điện thoại cho ông. Chuông vừa reng lên một tiếng ngắn là ông mở máy trả lời liền, cứ như suốt cả buổi tối ông chỉ làm mỗi một việc là ngồi rình cái điện thoại, đợi nó reng lên là bấm nút “A-lô” ngay. Ông hỏi bà đang làm gì, bà nói bà đang đi bộ trong cư xá. Ông nói ông sẽ đến để cùng đi bộ với bà. Bà không tin lắm, nhưng chỉ cười cười. Vậy mà ông đến thật. Ông đưa cho bà một ly giấy to tướng đựng đầy bắp rang, bà chìa tay cầm lấy và trong một thoáng bà cứ ngỡ vẫn còn đang ở tuổi mười tám đôi mươi Bà hít một hơi dài rồi ngước lên nhìn ông bằng đôi mắt có hàng trăm vì sao trời đang lấp lánh trong đó.

- Em thấy bắp rang ở đây không thơm như bắp rang ở Sài Gòn.

- Ừ, bắp rang trên con đường Hai Bà Trưng thơm mùi bơ. Anh nhớ mỗi lần đi ngang xe bắp rang bơ là phải dừng lại, mua một gói, rồi vừa đi vừa ăn vì không thể nhịn thèm nổi.

Bà cười khẽ. Giọng cười của bà dù có khàn đi nhưng nghe cũng còn quyến rũ lắm.

- Có những món ăn ngày xưa em thích mê tơi, thí dụ món ốc leng xào dừa, ngày nào em cũng phải ăn một dĩa đầy mới đã, còn bây giờ mới nhìn thấy là ngao ngán liền. Em không hiểu tại sao nữa.

- Vì bây giờ mình trưởng thành hơn, mình hưởng thụ cũng nhiều hơn nên cơ thể cảm thấy không cần thêm nữa. Chỉ mới vài năm trước anh còn khoái ngồi uống bia với bạn bè, tối nào cũng phải một chai ướp lạnh mới ăn cơm được, nhưng từ sau lần anh bị ói ra mật xanh phải vào bệnh viện, nghe nhắc tới bia hay nhìn thấy chai bia là anh xanh mặt liền.

Không khí ban đêm lành lạnh nên bà đi sát vào người ông, nép vai bà bên vai ông, nhưng bà vẫn cố ý đút hai bàn tay vào trong túi áo khoác để có một lần vải ngăn cách giữa hai người. Ông Luân nhận ra điều đó. Ông tìm ngón út của bà và giữ chặt nó một lát trong tay ông. Xuyên qua lớp vải dày của chiếc áo khoác, bà vẫn cảm nhận được sự rung động nhẹ nhàng của người đàn ông có độ tuổi đã chấm tới con số bảy mươi bảy. Bà im lặng, không rụt ngón tay lại, để mặc cho trái tim đột nhiên thay đổi nhịp đập rộn ràng như pháo nổ ngày Tết. Bà cần tình yêu như như đũa có cặp, bà cần một người đàn ông bên cạnh bà như dép có đôi. Bà sẵn sàng thú nhận bên tai ông điều đó mà không cảm thấy xấu hổ.

Ông Luân có tiền hưu, có tiền con cái chu cấp, có tiền tiết kiệm trong ngân hàng nên cứ đến cuối tuần là ông dẫn bà đi ra khỏi thành phố, tận hưởng một không gian vắng lặng chỉ có hai người. Những nụ hôn hiếm hoi ông dành cho bà thật nồng nàn trên trán, trên má, nơi khóe môi. Bà cũng đáp lại cuồng nhiệt, bà ôm ghì lấy đầu ông, vừa hôn vào mép tai ông vừa vò vò mái tóc bạc được hớt cao gọn ghẽ. Ông Luân thích thú trước tình cảm của bà, bấu bấu những ngón tay có móng hình vuông được cắt ngắn vào vai bà. Họ ngồi trên băng ghế đá âu yếm nhau mười lăm, hai mươi phút giữa khung cảnh thiên nhiên lãng mạn, tĩnh mịch và đồng lõa. Tình yêu mà họ dành cho nhau chỉ có vậy thôi, có muốn hơn nữa thì cũng không được bởi vì ở tuổi bảy mươi bảy, khả năng tình dục của ông đã hết rồi – đã chết rồi!

Hai người thuê một ngôi nhà gỗ ở bìa rừng để họ có thể lái xe đến đó bất cứ lúc nào họ muốn. Chiều cuối tuần, ông Luân ngồi bên bờ suối câu cá, bà ngồi bên cạnh nép vào ông, theo dõi từng con cá vô tư lượn lờ qua qua lại lại nhưng chẳng con cá nào tỏ vẻ thích miếng mồi trùn sống đang ngo ngoe của ông. Thỉnh thoảng bà cười tủm tỉm khi thấy ông sốt ruột thở dài vì cá không cắn câu. Bà đặt bàn tay phải của bà lên đùi ông như khích lệ, thấy vậy ông cũng đặt bàn tay trái của ông lên bàn tay bà và giữ thật lâu. Đột nhiên bà nhổm người lên chỉ xuống dòng suối, khuôn mặt bà hớn hở với giọng nói vang vang như xé toạt sự yên tĩnh của thiên nhiên:

- Kìa, cá dính câu rồi kìa anh! Giựt lên đi! Giựt lên đi!

Ông Luân dùng cả hai tay giựt chiếc cần lên cao, miệng nở nụ cười thật rộng khi nhìn thấy một con cá đang vùng vẫy dữ dội nơi đầu sợi dây. Bà mở nắp máy chụp hình ra và chụp ông vài tấm hình cùng với “chiến lợi phẩm”. Sau đó ông vụng về loay hoay gỡ con cá tội nghiệp ra khỏi chiếc lưỡi câu và nhẹ nhàng thả nó xuống nước. Con cá sung sướng quẫy mạnh cái đuôi, lướt sang chỗ khác sau khi bị một phen hoảng hốt.

Hai ông bà sống hạnh phúc với nhau được ba năm thì ông Luân tỏ ý muốn đi du lịch sang Canada để thăm con cháu. Bà vui vẻ để ông ra đi. Nhưng sau đó con cháu ông viện cớ ông đã tám mươi tuổi rồi, sức khỏe yếu kém lại bị thấp khớp nên họ không cho ông quay trở về với bà nữa. Khi nghe ông thông báo tin tức đó qua điện thoại, bà chưng hửng – nhưng đành thở dài cam chịu. Một lần nữa bà chấp nhận cảnh cô đơn, nhưng lần này sống cô đơn ở độ tuổi bảy mươi sáu, ở độ tuổi bà nhận ra mình đang già đi thật nhanh, là điều bà không thể quen thuộc nổi. Tạo hóa đã sinh ra muôn vật sống phải có đôi, có cặp, bà không thể sống trái với quy luật sinh tồn của Tạo hóa. Bà cần một người đàn ông, cho dù người đàn ông đó đang lọm thọm chống gậy ở tuổi tám mươi thì ông cũng vẫn là một người đàn ông!

Trong một buổi tiệc cưới của đứa cháu ngoại của một người bạn khác, bà tình cờ ngồi bên cạnh ông Nguyện và một lần nữa duyên số lại kết hợp hai ông bà với nhau. Tuổi tám mươi nhưng ông Nguyện còn khỏe mạnh, còn lái xe được và đi đứng thẳng thớm chứ chưa đến nổi phải vịn tường lết đi từng bước. Ông Nguyện sống một thân một mình, đám con lớn có vợ có chồng ra riêng hết chẳng thèm ngó ngàng tới cha gì, thỉnh thoảng cuối tuần bọn họ ghé vào thăm ông, hỏi han mấy câu: “Ba có mạnh giỏi không?”, “Ba có cần ăn uống gì không?” rồi lên xe dông đi mất.

Thấy tội nghiệp ông, bà mở lời đề nghị:

- Anh dọn qua ở với em luôn đi.

Ông nhìn bà, ngỡ ngàng rồi lắc đầu:

- Cảm ơn em, nhưng anh không muốn làm phiền em đâu.

- Phiền gì mà phiền? Coi như anh với em góp gạo nấu cơm chung. Anh nấu cơm thì em rửa chén. Em quét nhà thì anh lau nhà.

Ông bóp bóp bàn tay bà, giọng nói tràn ngập cảm xúc:

- Cảm ơn em. Để anh thu xếp rồi anh sẽ trả lời em sau.

Nhưng rồi ông Nguyện giải quyết theo cách khác, ban ngày ông ở nhà bà, ban đêm ông về nhà ông, họ sẽ sống với nhau không hẳn như hai người tình mà là như hai người bạn, dù sao “tương kính như tân” vẫn hơn “thân quá hóa lờn”. Bà lắc đầu chịu thua, đành phải làm theo quyết định của ông. Nhưng rồi bà lại thấy ý kiến đó hay ho và thú vị. Buổi sáng ông lái xe đến, nhẹ tay mở cửa và bước vào trong nhà cùng với một món ăn điểm tâm cho hai người. Tính bà thích trang điểm kỹ lưỡng cho nên sau khi son phấn lượt là xong bà mới bước ra khỏi phòng ngủ để đón ông. Bà quàng tay ôm cổ ông và đi vào bếp pha cho ông một tách cà phê nóng, pha cho bà một tách sữa ca cao. Nơi bàn ăn, chỗ ngồi của ông phải là chiếc ghế đối diện với bà, ông không bao giờ muốn ngồi ở chỗ khác cho dù đó là chiếc ghế đặt bên cạnh bà.

- Tại sao kỳ cục vậy anh?

- Kỳ cục gì đâu? Tại vì anh thích vừa ăn vừa ngắm em vừa nghe em nói. Nhan sắc của em vẫn còn mượt mà và trẻ đẹp trong mắt anh. Giọng nói của em vẫn còn ngọt ngào và êm ái trong tai anh.

Bà biết ông nói thật. Người đàn ông ở lứa tuổi nào cũng có thể nói dối hoặc nói cho qua chuyện, nhưng khi đã bước qua tuổi bảy mươi, họ chỉ thích nói thật. Bởi vì nếu hôm nay họ không nói thật lòng, biết đâu ngày mai họ chẳng còn cơ hội để làm điều đó nữa.

Bà và ông Nguyện ngồi đối diện nhau, vừa nhâm nhi ăn sáng vừa rủ rỉ nói chuyện. Chuyện tuyết rơi ở New York. Chuyện hoa mộc lan nở tím trên cành. Chuyện mấy con quạ kêu ầm ĩ mỗi khi kéo nhau bay ngang qua mái nhà. Chuyện ông Bill đi lượm chai trong bồn rác để mang đi bán kiếm vài đồng. Họ ăn xong bữa sáng rồi mà câu chuyện vẫn chưa dứt.

Buổi trưa nếu bà làm biếng nấu nướng thì ông đi bộ tới tiệm cơm ở bên kia đường để mua hai hộp cơm mang về. Sau đó ông cầm bịch rác to tướng mang ra khỏi nhà, lững thững đi tới bồn rác ở cách nhà khoảng bốn trăm thước, vừa đi vừa hít thở cho tiêu cơm.

Buổi chiều hai ông bà rủ nhau đi lòng vòng quanh cư xá để tập thể dục. Họ bước chầm chậm trong ánh nắng chiều vàng vọt, trong sự im lặng và tĩnh mịch của buổi hoàng hôn.

- Anh có thấy lạnh không anh?

- Không, em. Anh mặc đủ ấm rồi em.

- Một lát nữa mình ăn tối với cái gì nong nóng nghen anh.

- Nếu em thích ăn mì vịt tiềm thì anh đi mua cho.

- Mì vịt tiềm của tiệm Lục Đỉnh Ký ăn được lắm đó anh.

- Ừ. Lát nữa anh đi mua về cho em.

Ông Nguyện chìu chuộng bà như thuở vẫn còn đôi mươi, còn bà thì mềm mỏng và dịu dàng như cô thiếu nữ mười tám. Họ nói chuyện thủng thẳng với nhau, không cáu kỉnh cũng chẳng giận hờn, cứ hết lòng “tương kính như tân” với nhau. Khi bà mệt thì ông đứng sau lưng bà, bóp vai, bóp lưng. Khi ông mệt thì bà đỡ ông nằm xấp xuống, xoa dầu, cạo gió cho ông. Bà nương vào ông, ông tựa vào bà, họ cần có nhau như đũa phải có cặp, dép phải có đôi, không cần biết ngày mai ngày mốt ai sẽ là người ra đi trước, ai là người khóc ai trước, ai sẽ là người tiễn đưa ai trước.

Sau bữa ăn, bà đứng trong khung cửa sổ nhìn theo ông tay cầm bịch rác to tướng, đi chầm chậm tới bồn rác. Mái tóc ông bạc trắng như cước làm trái tim bà gợn lên chút xót thương. Sống với nhau hơn gần hai ngàn ngày (chỉ là ngày thôi, không hề có đêm) bà nhận được biết bao sự chăm sóc tự nguyện mà ông dành cho bà. Bữa điểm tâm sáng nóng hổi. Bữa cơm trưa nhẹ nhàng với dĩa trái cây ngọt ngọt, chua chua. Bữa ăn tối nóng sốt dưới ngọn đèn chùm màu vàng cùng với một ly rượu chát nhỏ chia đôi. Những hình ảnh ấm cúng giữa ông với bà như cuộn phim quay chậm cứ hiện về rõ mồn một trong trí óc khiến có lúc bà mỉm cười một mình khi vân vê tấm rèm vải trong tay, chờ đón ông đẩy cửa bước vào trong nhà.

Tình yêu của người già mong manh như chiếc lá úa vàng trong mùa thu. Lúc đó những chiếc lá khô quắt queo lại chỉ dính một chút xíu vào cành cây chực chờ một cơn gió nhẹ thoảng qua là rơi rụng lả tả. Bà hiểu điều đó nên rất trân quý tình yêu, tình bạn của ông Nguyện dành cho bà. Đi đâu (đi shopping, đi mua sắm) bà cũng năn nỉ ông đi theo, để bà được nắm tay ông, để bà có thể làm bộ hỏi ý kiến ông về món đồ muốn mua, để bà được hưởng cảm giác bà vẫn là một nhân vật quan trọng, quan trọng nhất trong đôi mắt ông.

Tới tháng ba năm nay là bà tròn tám mươi mốt tuổi. Còn ông Nguyện thì được tám mươi lăm. Già thì già, họ vẫn cảm thấy hạnh phúc – hạnh phúc hơn một tỷ người khác – cho dù hạnh phúc đó vẫn được họ đếm từng ngày sau mỗi buổi sớm mai thức dậy…

 

Thứ Tư, 21 tháng 7, 2021

THIÊN THẦN VÔ DANH

THIÊN THẦN VÔ DANH

Chicken Soup for The Soul

Trong màu đỏ của hoa poppies, cả nước Mỹ đang bước vào mùa lễ "Memorial Day" để tưởng niệm những người con thân yêu của mình đã cống hiến trong các cuộc chiến tranh. Họ phần lớn là vô danh, không ai biết tên tuổi của họ, nhưng họ đã hy sinh cả thanh xuân của đời mình cho an vui chung của mọi người. Ngay cả những người lính đã trở về, cũng vẫn có tấm lòng hy sinh cao cả ...

Gia đình tôi có một giai thoại mà cha tôi thường hay kể cho chúng tôi nghe. Đó là câu chuyện về bà nội tôi. 

Năm 1949, cha tôi trở về nhà sau chiến tranh. Trên mọi nẻo đường khắp nước Mỹ, bạn có thể thấy những người lính đang xin đi nhờ xe để trở về với gia đình mình. Chuyện đó đã trở thành chuyện bình thường ở Mỹ lúc bấy giờ.

Không may là, niềm vui sướng được trở về đoàn tụ với gia đình của cha tôi nhanh chóng lụi tàn. Bà nội tôi bị bệnh rất nặng phải đưa vào bệnh viện. Thận của bà có vấn đề. Bác sĩ nói, bà phải được truyền máu ngay nếu không sẽ không qua khỏi đêm nay. Vấn đề là ở chỗ, máu của bà nội thuộc nhóm AB, một loại máu cho đến ngày nay vẫn còn rất hiếm chứ đừng nói gì đến thời đó, cái thời mà chưa có các ngân hàng máu hay các chuyến bay phục vụ cho công tác y tế. Tất cả mọi người trong gia đình đều đến làm xét nghiệm, nhưng chẳng ai có nhóm máu giống bà. Không còn hy vọng gì nữa, bà nội đang hấp hối.

Cha tôi rời bệnh viện mà nước mắt ròng ròng. Ông phải đi đón mọi người trong gia đình đến để nói lời chia tay với bà nội. Đang đi trên đường, cha tôi gặp một người lính đang vẫy tay xin đi quá giang về nhà. Đang buồn như thế, cha tôi chẳng còn tâm trí đâu mà đi giúp người khác. Nhưng, dường như có một sức mạnh nào đó khiến ông dừng xe lại cho người lạ mặt đó bước lên xe.

Trong lúc tâm trạng rối bời, cha cũng chẳng buồn hỏi xem người lính đó tên là gì, nhưng khi vừa lên xe ông ta đã nhìn thấy những giọt nước mắt của cha và hỏi xem chuyện gì đã xảy ra. Qua dòng nước mắt, cha tôi kể cho người đàn ông xa lạ nghe chuyện mẹ mình đang nằm chờ chết trong bệnh viện vì bác sĩ không thể nào tìm ra người có nhóm máu AB- giống như bà. Và nếu họ không tìm được trước đêm nay, bà chắc chắn sẽ chết.

Không khí trong xe chợt chùng xuống. Rồi người lính xa lạ đưa tay mình cho cha tôi, lòng bàn tay xòe ra. Nằm gọn trong lòng bàn tay ông là một chiếc thẻ bài ông vừa tháo trên cổ mình xuống, trên đó ghi: nhóm máu AB. Rồi người lính nọ bảo cha tôi quành xe trở lại, đưa ông đến bệnh viện.

Bà nội tôi sống thêm đến 47 năm nữa. Thế nhưng, cho đến tận bây giờ, cả gia đình tôi không một ai biết tên người lính đó. Cha tôi vẫn thường tự hỏi, liệu người đàn ông đó có phải là một quân nhân hay chính là một thiên thần trong trang phục người lính?

Thứ Hai, 19 tháng 7, 2021

VIẾT TÀO LAO TRONG BUỔI CHIỀU

Đỗ Duy Ngọc

Con người ta hình như đến một tuổi nào đó sẽ ngộ ra rằng cuộc đời thật ra chẳng có gì quan trọng. Cuối cùng rồi như nhau cả. Bạn có thể có một cuộc đời sung sướng, hạnh phúc hay bạn đã phải lầm than, nghèo túng, khổ đau. Cuối con đường có khác gì nhau đâu! Lúc xuôi tay, quân vương hay kẻ cơ hàn đều là sự giã biệt. Có thể có kẻ sẽ có tiền hô hậu ủng, kèn trống vang trời, có người bó trong chiếc chiếu rách đi giữa mưa rơi nhưng cả hai đều chẳng còn biết gì, tất cả đều đang làm cho người sống.
Đến một tuổi nào đó, người ra sẽ nghiệm thấy rằng cuộc đời chỉ là con số không to tướng. Sinh ra, lớn lên, già đi rồi mất hút. Mọi thứ danh vọng chỉ là trò hư ảo. Mọi thứ của cải làm ra cũng chỉ là thứ phù phiếm có rồi mất. Mọi thứ hoan lạc hay khổ ải cũng chỉ là gia vị của cuộc đời. Sinh ra thì phải sống, phải chiến đấu để tồn tại, phải khát vọng để vươn lên. Thế rồi, khi tuổi già đã tới, những bi kịch của tàn phai tác động đến mỗi người, sẽ thấy hoá ra mình đã bỏ cả tuổi thanh xuân để chạy theo toàn những thứ ảo vọng. Tranh giành nhau cái danh, lấn lướt nhau đoạt lợi. Được danh lợi rồi lại tham vọng nhiều hơn, lớn hơn. Cuối cùng cũng chỉ là một cuộc chơi để rồi trắng tay lúc trở về cát bụi.
Đến một thời điểm nào đó của cuộc sống, nhìn lại đọn đường ta đã đi, ta phát hiện ta chỉ để lại lắm điều lầm lỗi. Lầm lỗi với cha mẹ, với những người thân yêu. Lầm lỗi với bạn bè, với xã hội. Lầm lỗi với những người ta đã gặp, những người đã đi qua đời ta. Tất cả đều do cái tôi quá lớn của mỗi người, không biết quên mình mà chỉ sống cho mình. Do vậy, những suy nghĩ và hành động ích kỷ cứ mãi quẩn quanh để đưa đến lỗi lầm tiếp nối nhau.
Sống đến tuổi nào đó, người ta mới hiểu được rằng tự thắng được mình mới là điều quan trọng. Tuổi trẻ háo thắng chỉ chăm chăm thắng người, hơn người. Cảm thấy tự mãn và sung sướng trong thắng lợi. Có biết đâu rằng cái thắng lợi mình có là cái thất bại và đớn đau cho người khác. Đâu có biết rằng chính cái thắng lợi ấy là chiếc bẫy tiếp theo của cuộc đời mình. Trong mọi hoàn cảnh, tự thắng chính mình là điều khó nhất. Làm được điều đó là ta đã có thể tự hào.
Đến một tuổi nào đó, người ta mới hiểu được rằng lắng nghe mới là điều cần thiết. Biết lắng nghe là biết thu thập cả thế giới cho riêng mình. Biết lắng nghe thì mới phân biệt được phải trái phân minh. Biết lắng nghe thì mới có chia sẻ. Muốn lắng nghe thì phải học im lặng. Con người ta chỉ mất vài năm để học nói nhưng mất cả đời để học im lặng. Im lặng để lắng nghe. Không chỉ lắng nghe ngôn ngữ của con người, ta phải tập lắng nghe tiếng của thiên nhiên, tiếng của cỏ cây, giun dế, của gió, của nắng, của mưa bão. Tiếng sóng vỗ, tiếng chim kêu đều mang lại cho ta những cảm xúc của cuộc đời. Thiếu chúng nó, cuộc đời chỉ là khoảng trống vô vị.
Tới một tuổi nào đó, con người nên đến với thế nhân bằng những nụ cười. Hãy cười với nhau bằng tâm hồn mở tất cả các cửa, với tấm lòng thân thiện. Hãy chào nhau dù chỉ gặp một lần vì biết đâu ngày mai không còn cơ hội để gặp, không còn dịp để gởi nhau nụ cười. Sinh tử là ranh giới mỏng manh. Đời vốn vô thường. Già sẽ đưa đến tật bệnh, bệnh làm cho người ta héo úa, đau đớn khó chịu. Nếu lạc quan và trang bị nụ cười với mọi người, nỗi đau sẽ giảm đi, héo úa sẽ bớt đi, nụ cười chính là son phấn trang điểm cho tuổi già.
Đến một tuổi nào đó, con người sẽ hiểu được rằng điều cơ bản của con người là sự cô đơn. Con người sinh ra một mình và mất đi cũng chỉ một mình. Không ai sống thay ta và cũng chẳng ai chết thay ta. Gia đình, chồng vợ, con cái, bạn bè đều là người thân đấy nhưng mỗi người có một cuộc sống, mỗi người có mỗi số phận và định mệnh riêng. Do vậy, mỗi người phải tự quyết định đời mình, không chờ đợi một ai có thể thay mình. Trong hành trình sống, con người là một thực thể cô độc, không ai hoán đổi được. Tới tuổi già chính là lúc gặm nhấm nỗi cô đơn nhiều nhất.
Tới một lúc nào đó, người ta hiểu được sống là để làm cho đủ bốn bổn phận đối với cuộc đời. Bổn phận với quá khứ là trả hiếu với mẹ cha. Bổn phận với tương lai là nuôi dạy con cái. Bổn phận với cuộc sống là giúp đỡ kẻ hoạn nạn, yêu thương mọi người và cuối cùng là bổn phận lấp đầy đời mình bằng tiêu pha, sinh hoạt hàng ngày. Con người làm ra tiền dù ít hay nhiều cũng chỉ quẩn quanh từng đó bổn phận. Có kẻ làm không đủ thì là thiếu trách nhiệm. Thế cho nên làm người là làm tròn bổn phận. Tới tuổi già, làm xong bổn phận ta có thể ung dung để hưởng những ngày còn lại trong sự thanh thản.
Đến một lúc nào đó, người ta sẽ có những nuối tiếc. Tiếc vì chưa làm được những điều muốn làm, chưa đến được những nơi muốn đến. Quỹ thời gian không còn, chuyến tàu sầm sập đến hoàng hôn. Chợt giật mình thời gian quá ngắn. Bởi thế nên muốn làm gì thì làm ngay, muốn đi đâu thì đừng lần lữa. Có ước muốn thì hãy thực hiện, kể cả việc trả thù một ai đó nhưng mà nếu tha thứ được thì nên tha thứ, nếu quên được thì nên quên.
Sống tập quên cái cần quên cũng là một thứ thuốc chữa tâm hồn. Nhớ nhiều chỉ vác nặng. Sống mà mang nặng quá chỉ khổ thân.

Thứ Hai, 12 tháng 7, 2021

CÁC CỤ SAIGON XƯA, TRỞ VỀ DĨ VÃNG

CÁC CỤ SAIGON XƯA, TRỞ VỀ DĨ VÃNG

BS Trần Ngọc Quang

Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội…. luôn cả tên đường của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước chứ nói chi đến lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc lại đây vài tên đường để công hiến các bạn độc giả và xin ngọn gió bốn phương cho biết thêm ý kiến để chỉnh sửa về sau.

Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp có chiến lửa binh đao, chín tháng trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa. Lúc đó, Việt Nam còn là một thuộc địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.

Tôi lớn lên tại Sài Gòn ở số 148 đường Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai cho tới nay. Đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi khi mưa lớn là đường bị ngập. “Nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp nên tôi đi bắt đến khuya mới về, ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở trách.

Sau khi “chạy giặc” hồi 1945, vì máy bay đồng minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và năm sau thì dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.

Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905. Ông Huyện Sỹ là người giàu có ở vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam Phương Hoàng Hậu tức là vợ của Hoàng Đế Bảo Đại.

Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis Gaubert lập ra trường Taberd và đường Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères) là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.

Trong lúc “tản cư”, tôi đi học lớp chót trường làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat thay vì Pétrus Ký như Ba tôi. ”Trường Chasseloup” xây cất trong ba năm tại nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Lúc đầu, trường mang tên Collège Indigène de Saigon nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928, trở thành Lycée có nghĩa là luyện thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ Nam Kỳ. Hồi 1946, quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò. Lớp 12è niên khoá 1946-1947, trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó. Sau đó vài năm, trường nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về, tôi chạy nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ “Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước tôi mà là để tranh thủ thời gian đi cạo mủ cao su !

Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường Jauréguiberry cho có bóng mát? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường Calmette? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày, nó trở thành một trái banh nhỏ.

Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ chánh cống” và “dân Sài Gòn một trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và sống tại Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên trong trang sau cùng! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt Nam nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi. Hơn nữa, lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông hay bà nầy là ai mà họ đặt tên đường; sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn năm xưa…

Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm 1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau đó tự vận; dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẽ).

Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ “préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”, tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc, vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869, Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên Rue de la Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau 1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên “Ông Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.

Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa ở vùng trường đua Phú Thọ giữa lực lượng của Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường 11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955, đường nầy đổi tên là Hồng Thập Tự.

Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho ông Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn. Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy). Sau đó, chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn tại Sở Thú. Trên nền chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28 đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại ngoại ô Paris. Bà kể lại rằng vào năm 1943, nhà nầy được bán lại cho một người Do Thái tên là David, chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn. Vào đầu năm 1945, chánh phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu căn villa nầy. Khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm 1947, nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954 thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến tranh.

Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6 đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng lớp, nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi, sau đó học trường Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất 12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành. Về sau, nhờ Kỹ Sư Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885. Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).

Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của một “đứa con” của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917) đến cuối đường, gặp rạp hát Nam Quang (nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập Thành) đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu Trị vì bị hành hình lối năm 1847; mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất. Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ như thành phố Dixmude, nơi đã xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.

Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác. Thuở ấy, đường phố ít xe hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi về nhà qua chợ Sài Gòn: Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952, đoạn nầy lấy tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý) để đi đường Barbé và một đoạn đường Chasseloup-Laubat rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel vì Edith Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50 tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).

Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức, tất cả quân Pháp đến Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ; còn Đề Đốc Adolphe Bonard (chớ không phải Bonnard) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.

Vào cuối thế kỷ XIX, kinh rộng nhứt của Sài Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có hai đường dọc hai bên: đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly, đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau nhiều năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales). Theo Học Giả Vương Hồng Sển, vì gần rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa và đào kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại, theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard; vì thế, đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm năm 1963. Trước Tòa Thị Sảnh ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng binh nhỏ với nước phun lên có tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam Sơn để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác cũng do lấp kinh mà ra như Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà Nẳng vào 1858). Sau nầy, đường Pellerin lấy tên là Pasteur.

Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại khách sạn Continental. Lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó. Đi chơi vậy chớ có tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo lúc đi trước “Nhà Hát Tây”được cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn; khi mới tráng, nguời ta kêu là đường “Keo Su” dài tới Nhà Thờ Đức Bà. Qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran người đã dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế hay “Hồ Con Rùa”.

Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa” vì chạy giữa đường Gallieni tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng nhựa và năm sau, điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2 Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của Ông viết với chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.

Xe điện chạy thẳng vô đường Rue des Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là Rue des Marins). Ở góc đường có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn, nhà ga cuối cùng là Gare Rodier tại Kinh Tàu.

Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet, tôi có nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun” trên mấy cây soài nên bị “Ông Từ” rượt nhiều lần! Ngoài đường Frères Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh” (Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng Picardie phía Bắc Paris). Tôi nhớ vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc và tự hỏi Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy? Sau nầy, tham khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes thành Sương Nguyệt ÁNH?

Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần góc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ chớ không phải đường 3 tháng 2 vì đường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste Pavie (lừng danh trên đất Lào) đặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẽ thấy những biệt thự mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả, một triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền, tặng thành phố Sài Gòn Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành). Sau 1954, các nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là đường Hui Bôn Hoả.

Lúc đó, đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm. Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả, đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004: đó là mả có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo như người ta tưởng.

Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé, rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun, đường nấy lấy tên Legrand De La Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ trường Polytechnique Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý, tử trận hồi 1918, có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra phụ trách về các hồ sơ giữa người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954, đường nầy đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt Nam. Tiếc thay sau 1975, không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh hùng dân tộc nầy cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng không còn trường học nào mang tên Petrus Ký! Cho tới nay, tôi chưa thấy một học giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn Duyệt”, đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được hồi phục.

Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn, đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm), Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố (ông nầy tên thật là Trương Minh Ngôn, cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên Trường Thông Ngôn [Ecole des Interprètes] nằm trong Tòa Án; nhờ làm thông dịch viên lúc Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi vì bệnh lao phổi).

Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học trường Saint-Cyr vào năm 1904. Là Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị thương nặng nhưng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.

Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa vì chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983, chính quyền đương thời đã sang bằng “Lăng Cha Cả” có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi …. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẫn là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người mất năm 1799. Người Sài Gòn gọi mộ ông là Lăng Cha Cả là một trong những di tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm 1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm của Cha Pierre Joseph Pigneau de Béhaine ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 “Musée Monseigneur Pigneau de Béhaine”. Sau khi xem xong, tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giữ biên cương …

Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV, luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.

Những tên đường Sài Gòn trong bài theo thời cuộc

Thời pháp thuộc

Sau 1954

 Sau 1975

Albert Premier

Đinh Tiên Hoàng

 Đinh Tiên Hoàng

Amiral Roze

Trương Công Định

 Trương Định

Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau

Trần Hoàng Quân

 Nguyễn Chí Thanh

Arras

Cống Qùynh

 Cống Qùynh

Aviateur Garros, Rolland Garros

Thủ Khoa Huân

 Thủ Khoa Huân

Barbé

Lê Qúy Đôn

Lê Qúy Đôn

Blancsubé, rue Catinat prolongée

Duy Tân

Phạm Ngọc Thạch

Bonard

Lê Lợi

Lê Lợi

Carabelli

Nguyễn Thiệp

Nguyễn Thiệp

Catinat

Tư Do

Đồng Khởi

Champagne

Yên Đỗ

Lý Chính Thắng

Charner

Nguyễn Huệ

Nguyễn Huệ

Chasseloup Laubat

Hồng Thập Tự

Nguyễn Thi Minh Khai

Chemin des Dames

Nguyễn Phi

Lê Anh Xuân

Colonel Boudonnet

Lê Lai

Lê Lai

Dixmude

Đề Thám

Đề Thám

Đỗ Hữu Vị, Hamelin

Huỳnh Thúc    Kháng

Huỳnh Thúc Kháng

Douaumont

Cô Giang

Cô Giang

Ducos

Triệu Đà

Ngô Quyền

Duranton

Bùi Thị Xuân

Bùi Thị Xuân

Espagne

Lê Thánh Tôn

Lê Thánh Tôn

Eyriaud Des Vergnes

Trương Minh  Giảng

Trần Quốc Thảo

Frédéric Drouhet

Hùng Vương

Hùng Vương

Frère Louis

Võ Tánh

Nguyễn Trãi

Frères Guillerault

Bùi Chu

Tôn Thất Tùng

Gallieni, rue des Marins

Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh

Trần Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2

Garcerie

Duy Tân

Phạm Ngọc Thạch

Général Lizé

Phan Thanh Giản

Điện Biên Phủ

Georges Guynemer

Võ Di Nguy

Hồ Tùng Mậu

Huỳnh Quan Tiên

Hồ Hảo Hớn

Hồ Hảo Hớn

Jaccario

Tản Đà

Tản Đà

Jauréguiberry

Ngô Thời Nhiệm

Ngô Thời Nhiệm

La Grandière

Gia Long

Lý Tự Trọng

Lacaze

Nguyễn Tri   Phương

Nguyễn Tri Phương

Lacote

Phạm Hồng Thái

Phạm Hồng Thái

Larégnère

Đoàn Thị Điểm

Trương Định

Legrand De La Liraye

Phan Thanh Giản

Điện Biên Phủ

Léon Combes

Sương Nguyệt Ánh

Sương Nguyệt Anh

Mac Mahon, De Lattre 

De Tassigny, Gal 

De Gaulle

Công Lý

Nam Kỳ khởi nghĩa

Marins

Đồng Khánh

Trần Hưng Đạo 2

Miss Cavell

Huyền Trân Công Chúa

Huyền Trân Công Chúa

Nancy

Cộng Hòa

Nguyễn Văn Cừ

Nguyễn Tấn Nghiệm, 

rue de Cầu Kho

Phát Diệm

Trần Đình Xu

Nguyễn Văn Đưởm

Nguyễn Văn Đưởm

Nguyễn Văn Nghĩa

Ohier

Tôn Thất Thiệp

Tôn Thất Thiệp

Paul Blanchy

Hai Bà Trưng

Hai Bà Trưng

Pavie, Hui Bôn Hoả

Lý Thái Tổ

Lý Thái Tổ

Pellerin

Pasteur

Pasteur

Phan Thanh Giản

Ngô Tùng Châu

Lê Thị Riêng

Pierre Flandin

Bà Huyện Thanh Quan

Bà Huyện Thanh Quan

Pierre Pasquier

Minh Mạng

Ngô Gia Tự

Place Eugène Cuniac

C.Trường Quách Thị Trang

C.Trường Quách Thị Trang

Place Maréchal Joffre

Công Trường Quốc Tế

Hồ con Rùa

Richaud

Phan Đình Phùng

Nguyễn Đình Chiểu

Somme

Hàm Nghi

Hàm Nghi

Testard

Trần Qúy Cáp

Võ Văn Tần

Thévenet

Tú Xương

Tú Xương

Tổng Đốc Phương

Tổng Đốc Phương

Châu Văn Liêm

Trương Minh Ký, Lacant

Trương Minh Ký

Nguyễn Thị Diệu

Verdun, Gal Chanson, Nguyễn Văn Thinh

Lê Văn Duyệt

Cách mạng tháng 8

Ypres

Nguyễn Văn Tráng

Nguyễn Văn Tráng

11è R.I.C.

Nguyễn Hoàng

Trần Phú