Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2022

AI XUÔI VỀ TÂY ĐÔ?

 AI XUÔI VỀ TÂY ĐÔ?

Việt Hải & Mindy Hà

Ngày còn nhỏ tôi được ghé xuống ở chơi tại Cần Thơ khi nghỉ hè,
từ đó tôi có những tình cảm nồng nàn với tỉnh Cần Thơ. Cần Thơ có
vô vàn điều để nói, để nhớ lắm như người Cần Thơ, vườn trái cây,
sông nước, ẩm thực, địa lý thuận lợi như trung tâm của những tuyến
giao thông di chuyển khắp miền Tây, tôi nghe người ta còn gọi Cần
Thơ là Tây Đô. Ngẫm nghĩ lại không sai đâu cho cái tên để gọi này.
Trong bài này tôi mời chị Mindy Hà tiếp tay cho ý kiến về Tây Đô.
Người khác tôi hỏi chuyện về Cần Thơ là người bác ruột của tôi.
Vì đầu thập niên 60, ông nhiệm chức tại tỉnh Cần thơ. Sau đây, tôi
xin được ghi nhận những điều về vùng đất Tây Đô hay Cần Thơ
trong sự mến yêu của tôi.

Cần Thơ là một thành phố lớn, sầm uất, một cửa ngõ ngó ra cả vùng 

hạ lưu sông Cửu Long và là trung tâm kinh tế, văn hóa, một khu vực

đầu não mang tính quan trọng về hành chánh, quân sự, cũng như vị 

trí chiếnn lược, với những tuyến giao thông vận tải trong toàn vùng, 

mà còn liên lạc với quốc tế của vùng đồng bằng sông Cửu Long và 

một vùng lãnh thổ xứng đáng đại diện cho miền Tây để tiếp xúc và 

giao thương đi những nơi khác.


Sinh hoạt trên sông nước Cần Thơ

Tôi thích ngân nga câu ca dao:

"Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi tới đó lòng không muốn về"

Ý thơ gieo sự đồng thuận trong tôi vì một vùng đất thiên nhiên ưu 

đãi trù phú, dân cư đông đúc, mậu dịch sầm uất, và được gọi là vùng

Tây Đô dưới thời Pháp thuộc vào thế kỷ thứ 19. Theo tài liệu từ Tự 

điển Bách khoa Wikippedia về Cần Thơ, nào, bây giờ chúng ta hãy 

xét qua những yếu tố về Cần Thơ như:

* Lịch Sử:

Từ cuối thế kỷ 18, Mạc Cửu vốn là người Trung Quốc không thần 

phục nhà Thanh, cùng tùy tùng và dân cư theo đường biển kéo vào 

miệt Hà Tiên khai khẩn, lập nghiệp dưới sự bảo hộ của chúa Nguyễn,

được phong làm Tổng binh trấn Hà Tiên, từ đó cư dân qui tụ ngày 

càng đông. 

Năm 1732, toàn bộ đất phương Nam được Chúa Nguyễn chia làm 3 

Dinh và 1 Trấn gồm: Trấn Biên Dinh (vùng Biên Hòa ngày nay), 

Phiên Trấn Dinh (Gia Định), Long Hồ Dinh (Vĩnh Long) và Trấn 

Hà Tiên. 

Sau khi Mạc Cửu mất, Mạc Thiên Tích nối nghiệp cha, đẩy mạnh 

công cuộc khai khẩn ra vùng hữu ngạn sông Hậu, đến năm 1739 thì 

hoàn tất với 4 vùng đất mới: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang 

(Rạch Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bạc Liêu) được sáp 

nhập vào đất Hà Tiên. Đây là điểm mốc đánh dấu sự xuất hiện của 

Cần Thơ trên dư đồ Việt Nam.

1739: Tổng trấn Mạc Thiên Tứ mở thêm 4 vùng đất mới và cho nhập

 vào Hà Tiên gồm có: Long Xuyên (Cà Mau), Kiên Giang (Rạch 

Giá), Trấn Giang (Cần Thơ), Trấn Di (Bắc Bạc Liêu).

1740: (Năm Canh Thân), Tổng trấn Mạc Thiên Tứ dâng đất mới mở 

cho chúa Nguyễn.

- Chúa Nguyễn Phúc Khoát tiếp thu phần đất mới khai thác. Sau đó,

ra sắc lệnh cải cách khoa cử tạo thêm điều kiện cho hoạt động văn 

hóa cho nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên và ở miệt Cần Thơ.

1753: Võ vương Nguyễn Phúc Khoát phái ký lục Bố chính dinh là 

Nguyễn Cư Trinh vào Nam để đôn đồc các cấp thừa hành ở miền 

Nam.

1757: Cần Thơ thuộc đạo Châu Đốc (sau này là An Giang), một trong

ba đạo do Nguyễn Phút Khoát lập sau khi sáp nhập đất Tầm Phong 

Long (Châu Đốc-Sa Đéc) do Mạc Tôn (được Mạc Thiên Tứ dưa về 

nước) hiến đất để tạ ơn.

1777: Quân Tây Sơn diệt các tướng của Chúa Nguyễn là Trần Chính

Vương và Thái Thượng Vương. (Cũng vào năm này, Tham tướng 

Mạc Tử Sanh tử trận ngay bên một con rạch nay còn mang tên Tham

Tướng thuộc phường Xuân Khánh - Cần Thơ). 

Năm 1995, thành phố Cần Thơ do mở rộng đường nên lấp cầu Tham

Tướng lại mang một tên mới là "Xuân Khánh".

1781: Quân Xiêm chiếm Hà Tiên rồi kéo tới Trấn Giang nhưng bị 

đánh trả phải rút lui.

1787: Chúa Nguyễn khôi phục lại đất Hà Tiên.

1808: Nam Bộ chia thành 5 trấn (Phiên An, Biên Hoà, Vĩnh Thanh, 

Định Tường, Hà Tiên). Trấn Giang (Cần Thơ) thuộc trấn Vĩnh Thanh

(Vĩnh Long và An Giang).

1814: Năm Gia Long thứ 12 lập thêm huyện Vĩnh Định (Cần Thơ) 

thuộc phủ Định Viễn, trấn Vĩnh Thanh.

1832: Tổ chức hành chính, cải tổ toàn diện thời Minh Mạng (sau khi

Lê Văn Duyệt chết), đổi "trấn" thành "tỉnh" và hình thành "Nam kỳ 

lục tỉnh" với các tỉnh: Biên Hoà, Gia Định, Định Tường, Vĩnh Long,

An Giang, Hà Tiên. Các tỉnh này hợp thành cặp gồm có: Định Biên '

(Gia Định và Biên Hoà), Vĩnh Tường (Vĩnh Long và Định Tường) 

và An Hà (An Giang và Hà Tiên).

Cũng vào năm 1832 (năm Minh Mạng thứ 13),Việt Nam có tất cả 31

tỉnh. Mỗi tỉnh đặt dưới quyền Tổng Đốc hay Tuần phủ, có Bố chính 

sứ, Án sát sứ và Lãnh binh phụ giúp. "Gia Định thành" trước đây nay

được gọi mới là Nam Kỳ (còn gọi là Nam kỳ lục tỉnh). Cần Thơ bấy 

giờ (huyện Vĩnh Định) tách ra khỏi Vĩnh Long, thuộc về tỉnh An 

Giang, phủ Tân Thành.

1839: Vua Minh Mạng đổi tên huyện Vĩnh Định thành huyện Phong 

Phú thuộc phủ Tuy Biên (Châu Đốc, tỉnh An Giang).

1854: Một đội 50 người xin khẩn 2 khoảng đất tổng cộng 200 mẫu 

của làng Trường Thạnh (nay là Cái Răng, Cần Thơ). Đội trưởng 

Nguyễn Văn Tân đứng đơn, có thôn trưởng, hương thông ra dịch 

mục ký tên. Thôn trưởng làng giáp ranh (làng Như Lăng) ký vào để 

xác nhận ranh giới, viên cai tổng cũng ký vào. Đơn này được tổng 

đốc An Hà phê chuẩn. Đồn điền nói trên thu hút dân của làng Trường

Thạnh và cắt đất này ra đến 200 mẫu.

1862: Ngày 5-6, Triều đình nhà Nguyễn ký hoà ước nhượng 3 tỉnh 

miền Đông Nam kỳ cho Pháp.

1864: (Tự Đức thứ 17) triều đình nhà Nguyễn mở kỳ thi Hương cuối

cùng ở Nam kỳ, đặt tại huyện Phong Phú (vì Pháp đã chiếm mất Gia

Định).

1867: Ngày 20/22/24-6, ba tỉnh miền Tây (gồm Vĩnh Long, An Giang

Hà Tiên) bị Pháp chiếm đóng.

- Ngày 25-6-1867, De La Grandière bố cáo trọn xứ Nam kỳ thuộc 

Pháp.

1868: Ngày 1-1, theo Nghị định của Thống Đốc Nam kỳ Bonard, 

huyện Phong Phú (Cần Thơ), được sáp nhập với vùng Bãi Sào (Sóc 

Trăng) thành lập quận đặt dưới quyền cai trị của người Pháp, lập Tòa

bố tại Sa Đéc (hạt Sa Đéc, phủ Tân Thành) gồm có 3 huyện (An 

Xuyên, Vĩnh An và Phong Phú).

- Định Sâm dấy binh khởi nghĩa ở Láng Hầm, Trà Niềng (nay thuộc 

huyện Châu Thành, Cần Thơ), giết tên cai tổng Nguyễn Văn Vĩnh 

rồi rút về đầm lầy Ba Láng.

1870: Đỗ Thừa Luông khởi nghĩa kháng Pháp ở Cần Thơ bị thất bại,

nổi dậy lần thứ hai ở Cái Tàu (Cà Mau) lấy U Minh làm căn cứ.

1872: Ngày 30-4, Thống đốc Nam kỳ ra Nghị định sáp nhập Phong 

Phú với vùng Bắc Tràng (trước đây là phủ Lạc Hoá, tỉnh Vĩnh Long)

lập thành hạt Tòa bố đặt tại Trà Ôn. Tòa bố hoạt động được một năm 

thì dời về Cái Răng (Cần Thơ).


Chợ Cần Thơ

Cần Thơ là thành phố cửa ngõ của cả vùng hạ lưu Cửu Long giang, 

là trung tâm kinh tế, văn hóa, đầu mối quan trọng về giao thông vận 

tải cho toàn khu vực và liên vận quốc tế của vùng đồng bằng châu 

thổ sông Cửu Long và của cả nước. Một vùng mệnh danh thiên 

nhiên ưu đãi bởi gạo trắng nước trong trong câu ca dao:

"Cần Thơ gạo trắng nước trong,
Ai đi tới đó lòng không muốn về"

Ý thơ cho thấy phần nào nói về một vùng đất trù phú, sầm uất, được 

gọi là Tây Đô từ thời Pháp thuộc vào thế kỷ 19. Về phương diện địa 

lý của Cần Thơ thì diện tích là 2.965 km2. Thống kê về dân số năm 

2004 cho biết Cần Thơ có 1.121.141 người, và Cần Thơ tiếp giáp 

với 6 tỉnh: phía bắc giáp An Giang, Đồng Tháp, phía nam giáp Sóc 

Trăng, Bạc Liêu, phía tây giáp Kiên Giang, phía đông giáp Vỉnh Long.

Thành phố Cần Thơ không có núi mà chỉ toàn đồng bằng và sông 

rạch. Sông Hậu Giang rất quan trọng về kinh tế, có bến bấc Cần Thơ

gần tỉnh lỵ là nơi tiếp nhận các tàu biển lớn. Kinh rạch trong tỉnh rất 

nhiều và tiện cho việc giao thông.

Phía bắc có kinh Xà No, kinh Cầu Sắc, kinh Thốt Nốt, kinh Thị Đôi,

kinh Ô Môi, sông Cần Thơ. Phía nam có kinh Cái Lớn, kinh Long 

Mỹ, kinh Phụng Hiệp... Quận Phụng Hiệp ở giữa bảy con kinh, từ 

đây dân chúng có thể đi Sóc Trăng, Rạch Giá, Cà Mau hoặc ra hai 

sông Tiền Giang, Hậu Giang đi lên Sài Gòn.

Quốc lộ 4 và liên tỉnh lộ 27 là trục giao thông đường bộ quan trọng 

nối Cần Thơ với các tỉnh lân cận. Hai phi trường đặt ở Bình Thủy và

Trà Nóc thuộc quận Châu Thành. Các tuyến đường lớn chạy qua tỉnh

là quốc lộ 1A, quốc lộ 80, quốc lộ 91. Cần Thơ là trung tâm giao 

thông thủy bộ của cả vùng Nam Bộ, nối liền với Campuchia. Cần 

Thơ có bến cảng khá lớn tiếp nhận tàu 5.000 tấn.

Nói về khí hậu thì nóng ẩm nhưng tương đối ôn hòa hơn tỉnh Tây 

Ninh có cái nắng gắt lắm như khí hậu chung của miền Nam có hai 

mùa mưa và nắng rõ rệt. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11. Mùa khô

từ tháng 12 đến tháng 4. Cần Thơ cách Sài Gòn 169 km (hay 105 

miles), từ xa xưa đã được coi là trung tâm lúa gạo của miền Tây 

Nam phần, bây giờ Cần Thơ là một trong những tỉnh sản xuất và 

xuất cảng gạo chính cho sản lượng của cả nước.

Với đất đai Cần thơ vốn dĩ phì nhiêu, bên ngoài gạo ra, còn nổi tiếng 

về cây ăn trái, như các loại cây trái vùng nhiệt đới: xoài, mận, nhản, 

măng cụt, vú sửa, mãng cầu, mít, sầu riêng,... Cần Thơ còn có nguồn

thủy sản khá dồi dào chính yếu là tôm, cá nước ngọt (hơn 5.000 mẫu

ao đầm nuôi tôm, cá nước ngọt) và chăn nuôi gà, vịt và heo.


Chợ Nổi Trên Sông

Về các địa danh du lịch thì Cần Thơ có khá nhiều nơi để khách 

phương xa thăm viếng. Những công trình xây cất như đình, chùa hay

phong canh cảnh thiên nhiên:

* Khu Du lịch Cồn: gồm Cồn Ấu, Cồn Khương, Cồn Sơn, Cồn Tân 

Lộc nằm liền kề dọc theo sông Hậu, tuyến du lịch đường thủy quốc 

tế từ Campuchia ra biển Đông. Trong tương lai sẽ là những khu du 

lịch sinh thái hấp dẫn mang những đặc trưng miệt vườn, sông nước 

mà các nơi khác không có được.

* Chợ nổi Phong Điền: thuộc xã Nhơn Ái, huyện Phong Điền. Chợ 

thường nhóm họp vào khoảng 4-5 giờ sáng đến 7-8 giờ thì tan dần. 

Từ tờ mờ sáng, những người dân quê đã hối hả bơi chèo chở theo 

các loại sản phẩm từ vườn nhà ra chợ bán. Ngoài ra, còn có ghe của 

những thương nhân lái từ vùng trên đổ xuống, miệt dưới chạy ngược

lên đưa hàng của phố thị và đặc sản của miền xa về nhóm họp làm 

cho chợ nổi trên sông càng thêm tấp nập.

* Chợ nổi Cái Răng: nằm cách trung tâm thành phố Cần Thơ khoảng

5 km theo hướng quốc lộ về tỉnh Sóc Trăng. Từ tờ mờ sáng cho đến 

chiều tối, hàng trăm ghe xuồng ở các nơi khác về đây tập trung tấp 

nập buôn bán trên sông. Thời gian họp chợ trên ghe xuồng đông nhất 

từ 6 giờ đến 8 giờ sáng. Chợ nổi Cái Răng có sức trao đổi thương 

mại phồn thịnh có thể trở thành chợ trung tâm mua bán lớn nhất 

trong càc loại chợ.

* Khu Du lịch Phù Sa: ở giữa lòng sông Hậu, cách trung tâm thành 

phố chưa đầy 1km theo đường chim bay là bãi bồi cồn Ấu, có diện 

tích khoảng 30 mẫu. Đây được xem là khu nơi du lịch khá sinh động

lớn nhất vùng đồng bằng sông Cửu Long.

* Chợ hoa xuân bến Ninh Kiều: Chợ hoa bắt đầu từ giữa tháng chạp 

và kéo dài đến đêm giao thừa. Đây là chợ hoa truyền thống có từ 

hàng chục năm nay. Dịp này hàng trăm loại hoa đẹp được trồng từ 

miệt vườn được các tay chơi hoa sành điệu đem ra trưng bày, số 

lượng người trong và ngoài nước đến tham dự thưởng ngoạn rất đông.

* Vườn du lịch Thủy Tiên: Nằm trên Quốc lộ 91 đi hướng về An 

Giang, cách trung tâm Cần Thơ 15 cây số. Tại đây cây trái sum suê 

quanh năm, không khí trong lành khiến lòng du khách dễ cảm mến 

vị ngon ngọt của nhiều loại trái cây đồng bằng và các món ăn dân dã

đồng quê miền Nam.

* Mộ Thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa: thuộc phường An Thới, quận Bình 

Thủy. Mộ xây bằng đá ong vào năm 1872. Toàn bộ khu vực mộ rộng

530 m2. Cách ngôi mộ chính về phía sau khoảng một thước là ngôi 

đền thờ cụ Bùi Hữu Nghĩa. Lễ giỗ của cụ tổ chức linh đình hàng 

năm vào ngày 21 tháng giêng. Khu bia mộ của nhà thơ Bùi Hữu 

Nghĩa được xếp hạng Di tích văn hóa.

* Đình Bình Thủy: thuộc quận Bình Thủy, Đình ra đời cách đây trên

150 năm, Đình Bình Thủy là cách gọi của dân gian, còn có tên chính

thống là "Long Tuyền cổ miếu" với khuôn viên khang trang rộng rãi.

Đình Bình Thủy được xem là một di tích có lối kiến trúc nghệ thuật 

độc đáo.

* Hội Linh Cổ Tự: Chùa còn có tên gọi khác là Hội Long Tự hay 

Chùa Xẻo Cạn thuộc phường An Thới, quận Bình Thủy. Hội Linh 

Cổ Tự được xây cất năm 1907, sau đó được trùng tu lại năm 1914. 

Chùa Hội Linh là một công trình kiến trúc mang nhiều giá trị nghệ 

thuật cổ kính.

* Chợ cổ Cần Thơ: Chợ còn gọi là chợ Hàng Dương hay "chợ Lục 

tỉnh", nằm trên đường Hai Bà Trưng. Chợ nay đã hơn trăm tuổi. Chợ

mang một nét rất cá biệt, rất độc đáo của đồng bằng châu thổ. Với 

nhà lồng chợ cổ Cần Thơ, thành phố có thêm một địa điểm tập họp 

mua bán nhờ ngành du lịch, thu hút nhiều du khách trong và ngoài 

nước thăm viếng, mua sắm khi đến thăm vùng đất Tây Đô.

* Chùa Ông: tọa lạc số 32 Đường Hai Bà Trưng, Phường Tân An, 

quận Ninh Kiều. Tên Hán tự là Quảng Triệu Hội Quán (theo càc đại 

tự được ghi ở tiền điện). Chùa thờ Quan Thánh Đế quân (tức Quan 

Công) ở chính điện nên người dân địa phương quen gọi là Chùa Ông.

Ngôi chùa được xây dựng vào năm Quang Tự thứ 20 (1894) và tồn 

tại cho đến ngày nay với lối kiến trúc cổ xưa vẫn còn nguyên vẹn từ 

hình dáng bên ngoài đến nét chạm trổ công phu nội điện. Chùa Ông 

được xem là di tích văn hóa mang tính cách lịch sử, một điểm du lịch

nổi bật của Cần Thơ.

* Bến Ninh Kiều: bến sông nhìn thẳng ra ngã ba sông Hậu, sông Cần

Thơ mỗi buổi bình minh lên, mặt trời mọc trên dòng sông tuyệt đẹp. 

Bạn có bao giờ thức thức những bữa cơm chiều tại bến sông và để 

ngắm buổi chiều tà khi hoàng hôn buông xuống từ bến Ninh Kiều 

cho không gian thơ mộng hay một buổi ăn trên thuyền rồng thả trôi 

lững lờ trên dòng Hậu Giang, nghe thanh âm bài vọng cổ mà lòng bồi hồi:

"Người ta đã có đôi rồi
Chiếu chăn đâu ấm bằng người tình chung,
Để mình vác cặp chiếu bông
Chờ đợi chi nữa uổng công đợi chờ"


Nét Đẹp Sông Nước Cần Thơ

Phải chăng bài vọng cổ hôm nào "Tình Ca Anh Bán Chiếu" của soạn

giả Viễn Châu chạnh lòng lữ khách vì làn ngân du dương, mượt mà. 

Bến Ninh Kiều là nơi neo đậu, tàu thuyền mang khách đến và đi thật

tấp nập, thật nhộn nhịp. Bến Ninh Kiều là nơi du lịch để khách 

phương xa đến thăm viếng với sự hiếu kỳ và rồi ra đi với kỷ niệm 

xao xuyến với thiên nhiên bến nước sông ngòi mênh mông trong 

mộng nhớ về vùng Tây Đô.

Nhạc sĩ Lâm Hoàng sáng tác nhạc phẩm "Ninh Kiều Em Gái Cần 

Thơ", âm điệu ca phát âm giọng miềnn Nam, bài ca khi người trai 

nhớ về người em gái Ninh Kiều cho anh xao xuyến nhớ về kỷ niệm:

"Ai về miệt dưới Hậu Giang
Cho tôi nhắn gửi đôi hàng ước mơ
Ninh Kiều em gái Cần Thơ
Bao năm anh vẫn thương chờ đợi mong
Anh giờ ngàn dặm xa xăm
Thương em gái nhỏ bên hàng dừa xanh
Ninh Kiều là của riêng anh
Nũng nịu mà duyên đáng bên bờ Tây Đô
Nhớ ngày xưa bắt bước lên đường
Tặng em bài hát đến trường
Kỷ niệm hai đứa bên nhau
Mơ ngày nói chuyện trầu cau
Đôi mình tình nặng trăm năm
Chung vui pháo đỏ rượu hồng ngày xanh
Ninh Kiều là của riêng anh
Nũng nịu càng duyên dáng, chân thành của anh"

Tôi tham khảo sách Cần Thơ Xưa của tác giả Huỳnh Minh, trang 206

đến 218 thì bến Ninh Kiều khi xưa có tên là bến Lê Lợi vì bến nằm 

dọc theo đường Lê Lợi, nó còn có tên khác là bến Hàng Dương vì 

dưới thời Pháp thuộc, những hàng dương được trồng dọc theo vệ 

đường trông rất thẫm mỹ. Về nếp dân sinh thì bến Lê Lợi là nơi tập 

trung các ghe thương buôn, dần dà bến được chỉnh trang lại, những 

cây dương được đốn bỏ. Kế hoạch kiến thiết đô thị để đem nét mỹ 

quan, làm đẹp thành phố, đến ngày 4 tháng 8, năm 1958, bến Ninh 

Kiều được khánh thành rất khang trang với công viên ghế đá. Theo 

tôi được kể lại thì đây là sáng kiến được ông Trưởng ty Công chánh 

Trương Thành Kháng đề xướng. Khi phác họa ra dự án xây dựng bến

Ninh Kiều thời Đốc phủ sứ Đỗ Văn Rước, dự án đem cho Cần Thơ 

có bến Ninh Kiều mà thơ hay nhạc đều ghi nhận nét đặc trưng của nó:

"Phong Dinh có bến Ninh Kiều
Có dòng sông đẹp có nhiều giai nhân
Cuộc đời luồng những phù vân
Trở về bến cũ cố nhân xa vời!"

Kể chuyện về nguồn gốc bên Ninh Kiều từ một bến ghe thương buôn tầm thường ở bờ sông Cần Thơ đến một bến Ninh Kiều tượng trưng cho một địa danh 

kiểu mẫu của quốc gia, hẳn rằng người dân Cần Thơ yêu quý nó lắm.

"Cần Thơ có bến Ninh Kiều
Mỗi chiều thứ bảy ngưới nhiều như nêm
Đẹp xinh cảnh sắc về đêm
Nhìn sông thấy nước nhớ thêm tình người"

Với tôi, Việt Hải, năm 1959 khi bác tôi, thiếu tá Trần Cửu Thiên, về 

nhiệm chức tỉnh trưởng Cần Thơ đã kể rằng những dự án công chánh

do ông Trưởng ty Thành Kháng đóng góp như thiết lập lộ 19, lộ 20, 

lấp Rạch Sáu Thanh, xây cầu Rạch Ngỗng, xây Bến Xe Mới và lấp 

khu đầm lầy để xây dựng Quân Y Viện Cần Thơ. Nói như vậy để thấy

rằng ông Trương Thành Kháng thực hiện nhiều điều công ích cho 

Cần Thơ. Khi ngồi đây viết bài này, tôi không biết ông bây giờ ở đâu Những lời này như để cám ơn ông.

Bến Ninh Kiều

Như vậy thì tên bến Ninh Kiều phát xuất từ đâu? Nguồn gốc là vì 

bến nằm dọc theo đường Lê Lợi nên người ta đã đặt cho nó cái tên 

quá đẹp là bến "Ninh Kiều" như để nhắc nhở một chiến tích oai hùng

của Bắc Bình Vương Lê Lợi tại bến Ninh Kiều ở đất Bắc xa xưa.

"Tuy Động thây phơi đầy đất
Ninh Kiều máu chảy thành sông"

Trận ác chiến tại bến Ninh Kiều ghi dấu sự vẻ vang quân Việt chiến 

thắng quân Minh. Cũng theo dòng sử ký, tại sao chúng ta có tên Cần

Thơ? Ngày xưa chuyện kể tương truyền rằng khi vua Nguyễn Phúc 

Ánh bị đạo quân của vua Quang Trung đánh đuổi, ông chạy vào miền

Nam ẩn náu ở Cần Thơ, nhận thấy con sông Cần Thơ quá mỹ miều 

ông bèn đặt tên cho nó là "Cẩm Thi Giang" mang ý nghĩa con sông 

của vẻ đẹp thi ca đàn hát rồi trong dân gian, người ta nói trại đi chữ 

"Cẩm Thi" thành chữ "Cần Thơ".

Qua phần trình bày từ lịch sử, địa lý về Cần Thơ hay một Tây Đô của

vùng đồng bằng sông Hậu, đến những địa danh của Phong Dinh mà 

trong đó có bến Ninh Kiều được ôn về kỷ niệm hình thành và phát 

triển, chúng tôi muốn gởi bài viết này đến những thân hữu Cần Thơ, 

đặc biệt đến đặc san liên trường Phan Thanh Giản và Đoàn Thị Điểm

2009. Riêng tôi, Việt Hải, xin kính gởi đến bác ruột của tôi, chính là 

người cho tôi dịp gần gũi với Cần Thơ của thuở thiếu thời để rồi 

trong trí nhớ đó của tôi mãi yêu Cần Thơ như yêu người tình.


Tham Khảo:

Tự điển Bách Khoa Wikippedia Online về Cần Thơ.
Sách Khảo Cứu Cần Thơ Xưa, tác giả Huỳnh Minh.


 

Không có nhận xét nào: