CẦU NGÓI THANH TOÀN 238 NĂM TUỔI (1776-2014)
Trần Công Nhung
Cầu ngói Thanh Toàn là chiếc cầu vồng bằng gỗ bắc qua con sông Như Ý, làng Thanh Thủy Chánh, thuộc xã Thuỷ Thanh, thị xã Hương Thuỷ, tỉnh Thừa Thiên - Huế, cách thành phố Huế 7km về phía Đông Nam.
Đây là chiếc cầu gỗ được xếp vào loại hiếm và có giá trị nghệ thuật cao trong các loại cầu cổ ở Việt Nam. Cầu được Bộ Văn hoá cấp bằng công nhận là Di tích cấp quốc gia vào năm 1990.
Cầu ngói Thanh Toàn xây dựng vào năm 1776 do bà Trần Thị Ðạo (một người cháu gái thuộc thế hệ thứ sáu của họ Trần) cúng tiền cho làng xây dựng để dân làng qua lại được thuận tiện và là nơi cho lữ khách cùng người tha phương tạm dừng chân lỡ bước.
Cầu được xây dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu). Cầu dài 43 thước mộc (18,75m), rộng 14 thước mộc (5,82m), chia làm 7 gian, hai bên thân cầu có hai dãy bục gỗ và lan can để ngồi tựa lưng. Trên cầu có mái che, lợp ngói lưu ly. Cầu đầu tiên được xây dựng cách đây hơn hai thế kỷ, đã bao lần bị gió bão, lụt lội và chiến tranh tàn phá. Tuy nhiên, sau các lần hư hỏng, nhân dân trong xã đều chung nhau tu sửa, tôn tạo và gìn giữ.
Cầu ngói Thanh Toàn là di tích cấp quốc gia từ năm 1990
Hàng năm có hàng ngàn du khách trong và ngoài nước đến ngắm nhìn chiếc cầu có niên đại 238 năm tuổi này
Chiếc cầu thơ mộng, nên thơ này được xây dựng theo lối "thượng gia hạ kiều" (trên nhà, dưới cầu)
Cầu ngói Thanh Toàn là một di tích kiến trúc cổ rất có giá trị về mặt lịch sử và văn hóa. Là một trong những chiếc cầu thuộc vào loại hiếm hoi và có giá trị nghệ thuật cao ở Việt Nam. Những đường nét hoa văn trên cầu đã thể hiện rõ điều đó.
Năm 1925, vua Khải Ðịnh ban sắc phong trần cho bà Trần Thị Đạo, người có công xây cầu, là Dực Bảo Trung Hưng Linh phò. Nhân dân biết ơn bà nên lập bàn thờ ngay trên cầu để thờ cúng bà.
Ngồi trên cầu ngói yên bình, thỏa sức ngắm cảnh đẹp của chợ quê Thanh Toàn cùng con sông Như Ý thơ mộng soi bóng mây trời
Cảnh đẹp nơi đây gắn với câu hò Huế nổi tiếng: Ai về cầu ngói Thanh Toàn/Cho em về với một đoàn cho vui.
Về cầu ngói Thanh Toàn, du khách còn được gặp những người nông dân thật thà chất phác bao năm làm ruộng, giờ đây trở thành những hướng dẫn viên du lịch. Họ tái hiện lại cảnh sinh hoạt thôn quê ngày xưa.
Du khách có nhiều cơ hội để trải nghiệm việc giã gạo.
Sàng gạo
Chằm nón lá…
Ngắm nhìn những con tò he rực rỡ, ngộ nghĩnh
Du khách, đặc biệt là nhiều trẻ em, thanh thiếu niên thành phố được biết đến các vật dụng nông nghiệp từ cái cuốc cái cày, bừa…
Cho đến cái quạt nước
Hay liềm, rựa, riều…
Hay tham gia các trò chơi dân gian đầy thú vị như Bịt mắt đập om
Chơi bài chòi
Trở về ngày xưa cũ với tục ăn trầu cau
Và chụp ảnh lưu niệm thỏa thích cho một chuyến đi thú vị về thăm và tìm hiểu đời sống dân giã ở thôn quê
Và đọng lại trong lòng mỗi du khách một tình yêu quê hương, yêu những gì đã trở thành di sản như cầu ngói Thanh Toàn cổ kính
Chợ Quê Cầu Ngói
Ai về Cầu Ngói Thanh Toàn,
Cho em về với một đoàn thêm vui
Hồi nhỏ, tôi thường ru em như thế. Cầu Ngói Thanh Toàn là một di tích đặc biệt của Huế. Một chiếc cầu kiểu thượng gia hạ kiều như cầu vào Chùa Thầy Hà Tây. Lễ Hội Festival Huế đã chọn Cầu Ngói tổ chức Hội Chợ Quê, càng thêm quyến rũ khách đường xa. Hội hè phải nơi thôn dã mới nhiều màu sắc, thành phố thì toàn máy móc khô cứng, giả tạo, chỉ khéo hóa trang.
Khai mạc Festival Huế năm nay trời mưa tầm tã suốt từ sáng, tôi lo không biết ngày mai về Cầu Ngói được không. Dù mưa cũng phải đi. Tôi đặt trước một xe ôm đến đón tận nhà nghỉ.
Lúc khởi hành trời không mưa, nhưng không có gì báo hiệu một ngày nắng. Ra quán cà phê cửa Thượng Tứ, điểm tâm, tôi thăm dò:
- Em định chạy lối nào về Cầu Ngói?
- Dạ, đi băng theo ngã Chợ Cống về Thủy Thanh cho mau.
Nhà nông
- Hay lắm, cứ đường mau mình chạy, đỡ mất thì giờ. Hội chợ khai mạc lúc 10 giờ, xuống đó em loanh quanh đợi tôi, xong lễ mình về.
Mới sáng sớm mà khu triển lãm trước bến Thương Bạc đã đông người. Những ngày hội hè di chuyển trong phố không phải dễ dàng, nhất là thời này lượng xe máy tăng vượt mức, đường sá quá tải, phải chen nhích từng bước. Qua khỏi cầu Trường Tiền giao thông mới bớt tắc.
Đã mấy chục năm, nay mới có dịp trở về chốn cũ, Chợ Cống, nơi tôi trọ học ngày xưa. Tôi bảo anh xe ôm: “Qua Chợ Cống dừng cho chú một chút.”
Không phải đợi, Chợ Cống đã hiện ra trước mặt. Ngày trước, đây là một xóm quê nghèo nàn, mùa mưa mới thấy khổ, đường sá lầy lội, mang áo tơi lá, đi bộ đến trường mỗi ngày trong gió rét căm căm, tôi không ngờ ngày nay là một phố thị, một ngôi chợ khang trang, đường chạy hai chiều, cảnh đổi thay ngoài sức tưởng tượng.
Khu bài Chòi
Khu vực phồn thịnh quanh Chợ Cống không nhiều, chạy một lúc đã vào làng quê, ruộng đồng không khác gì xa xưa. Tưởng rằng cậu chạy xe biết đường, hóa ra cũng phải lò mò hỏi từng chặng, lúc quẹo trái lúc quẹo mặt, cuối cùng chạy qua xã Thủy Thanh nước trắng đồng. Mưa mới hai hôm mà cánh đồng mênh mông như mặt biển. Đường làng tuy hẹp nhưng sạch sẽ, tráng nhựa hoặc đổ bê tông, không còn những con đường sình lầy nữa. Người đi dự hội từng nhóm, con trẻ áo đủ màu, rải dài trên đường đồng về Cầu Ngói.
Quán bánh sinh viên
Nhìn về phía làng xa, tôi hỏi:
- Gần tới chưa?
- Trước mặt chú tề. (Trước mặt kia chú).
Làng Cầu Ngói chắn ngang cánh đồng. Vào làng rẽ trái, qua một hai chiếc cầu nhỏ, đã nghe tiếng nhạc loa, tiếng trống, tiếng người, cờ xí, biểu ngữ giăng dài dài... Một lạch nước chạy theo đường cái, có “cầu khỉ” qua những túp lều tranh vách nứa, nghèo mà đẹp, tôi lại phải dừng. Tiếng loa vang càng rõ, Cầu Ngói đã tấp nập người xem, một vùng Chợ Quê đang ồn ào mua bán. Một khán đài dựng tạm ra bờ sông mé bên kia. Cờ quạt khẩu hiệu rực rỡ, tiếng loan báo chương trình khai mạc vang rộn trên loa.
Sự tích Cầu Ngói được ban tổ chức nhắc lại: “Ba-trăm năm trước, có bà Trần Thị Đạo, thấy dân chúng hàng ngày qua lại bất tiện vì ngăn sông. Nhất là những ngày mưa gió nước lớn, tai nạn không sao tránh khỏi, bà đã bỏ tiền và vận động dân chúng làm chiếc cầu nầy.”
Chiếc cầu đã 300 năm, mái ngói âm dương, 3 gian, 7 vài, vẫn còn nguyên, vẫn chắc, không như Chùa Cầu Hội An phải đội trên đế bê tông. Một công trình nghệ thuật cổ kính mà ngày nay còn lại không nhiều. Ngày thường chiếc cầu dùng cho mọi người qua lại, kể cả xe đạp, xe máy. Những buổi trưa hè, các lão ông trong làng ra nằm nghỉ mát. Trong ngày hội hôm nay, cầu được sửa sang trưng bày như một nơi lễ bái. Bàn thờ, hương đèn và nhiều bô lão khăn đóng áo dài ngồi tụ họp uống trà kể chuyện xưa cho con cháu.
Cầu ngói Thanh Toàn
Lễ đài đã chuẩn bị khai mạc, sau bài diễn văn của ban tổ chức, phát biểu của các quan chức là phần phát bằng khen thưởng cho những cá nhân xuất sắc trong sinh hoạt địa phương. Hình ảnh khởi đầu cho Hội Chợ Quê là một đoàn các bà quảng gánh ra chợ. Họ đi qua một chiếc cầu tre nhỏ mới làm, rất hợp với dòng sông nhỏ. Đôi gánh tuy nhẹ nhưng dáng vẻ vẫn hay, nhất là một đoàn liên tiếp cả chục người. Tiếc là các bà đi chợ thời nay, áo bà ba, chân dép chứ không như thời xưa áo dài, guốc mộc, nón lá quai thao. Bên này là đình chợ, đoàn Lân nổi trống múa một vòng qua cầu về khán đài. Lân đến đâu, trẻ con bu theo đấy, hội hè có Lân là xôm tụ. Lân đồng quê màu sắc cũng rực rỡ nhưng không chuyên nên không có màn “leo cây hái tiền,” tuy nhiên cũmg mang lại không khí tưng bừng cho ngày hội.
Trước đình chợ có dựng thêm lều tranh mấy dãy. Hai dãy lều Bài Chòi đã có người ngồi đợi. Trong đình là khu trưng bày các mặt hàng thủ công và những nông cụ mà ngày nay không còn dùng như: Cối xay, guồng nước, gàu giai, cối giã gạo, cày bừa... những chiếc xuồng nan bé tí, sàng dừng, thúng mủng bằng mây tre. Nhiều cô thử vào xay lúa, nhiều bà ngồi sàng sảy gạo, tỏ vẻ vui thích. Ai thắc mắc đã có chuyên viên đứng cạnh giải đáp. Tiếng hô Bài Chòi đã vang lên, thu hút người xem, tôi ghé qua nhưng không hiểu rõ lắm. Trời lại mưa, sẵn có lều hàng ăn, tôi vào kiếm một ghế, quán đã đầy khách. Một công hai việc, núp mưa, vừa thưởng thức món bánh Nậm, có cả bánh Bột Lọc, Cháo... Quán dã chiến của đội thanh niên trong làng, một cô cán bột, một cô hấp bánh, mấy cậu chạy bàn. Nói là chạy, nhưng quán chỉ hẹp chừng 4 mét vuông thì quay qua quay lại đã đụng nhau. Tôi hỏi :
- Một dĩa bánh Nậm bao nhiêu?
- Dạ, 3 ngàn.
- Cho chú một dĩa.
Qua cầu ra chợ
Dĩa bánh 7 cái, chén nước mắm dầm ớt thơm phức. Trời lạnh bánh nóng, bao nhiêu người còn đợi bên ngoài, tự nhiên thấy mình có niềm vui nho nhỏ. Dù là chuyện không gì, mình cũng may mắn hơn kẻ khác. Tôi khệnh khạng dùng đũa lột bánh vào chén nước mắm, định lột hai ba cái rồi ăn một lúc thì có chị ngồi đối diện chận lại:
- Không phải ăn rứa mô chú ơi.
Những người chung quanh xúm lại cười. Tôi chưa hiểu “mô tê” thì chị ta đã nhanh tay cầm đũa vừa mở bánh vừa chỉ cho tôi:
- Ăn ri nì, để bánh nguyên trên lá, dùng muỗng đũa, ăn hết cấy ni đến cấy khác.
Tôi liếc quanh, mọi người đều ăn như “rứa” cả nhưng tôi lại chợt nhận ra người đàn bà có đôi bàn tay quá đẹp. Ăn rứa ăn ri, bánh ngon dở chưa biết mà có đôi bàn tay đẹp để ngắm cũng “xứng đồng tiền, bát gạo” rồi. Nơi người đàn bà có nhiều cái đẹp, mắt đẹp dễ tả, dễ ví von, đôi bàn tay đẹp thì chỉ để ngắm chứ khó nói. Tôi tính khen một câu nhưng ở chỗ đông người nên thôi, nếu nơi vắng thế nào cũng có vài tấm ảnh.
Bánh nậm chợ quê thế mà ngon, không thua gì bánh O Sương (1), lót dạ một dĩa là vừa nhưng ăn no phải hai, ba. Ba nghìn đồng (20cents) một dĩa bánh đúng là “rẻ không đâu sánh bằng.”
- Cho chú gửi tiền.
- Dạ, ba ngàn.
Tôi đưa tờ bạc 20,000, vì hay nhầm lẫn khi trả tiền nên đưa giấy bạc lớn để họ thối cho chắc ăn. Cô bé trả lại :
- Dạ không có bạc lẻ đến nơi.
Tôi tìm giấy 5,000 đồng trả luôn không lấy lại tiền thừa, các cô cười vui vẻ, “Xí nữa mời chú lại ăn nữa hí.”
Một người trong đám lên tiếng: “Dọn tề.” (Dọn bàn đi).
Trời vẫn còn mưa, song chương trình đua thuyền như sắp bắt đầu. Khoảng 5, 6 chiếc thuyền dài, tập trung trước khán đài chờ lệnh xuất phát. Trời rét nhưng những tay bơi phải mặc áo thun, mỗi thuyền 8 chèo 1 lái. Dân chúng chen nhau ở hai đầu cầu để xem, trên bờ trống giục, tiếng cổ vũ như sấm dậy. Thuyền đua hai vòng, mỗi lần ngang qua gần cầu là tiếng trống càng thúc gấp, tiếng hò reo ầm trời. Các tay bơi cắm đầu xoải dầm xoàm xoạp, thuyền nọ sát thuyền kia. Xem ra ăn thua sát nút. Cuộc đua kết thúc, phần thưởng phát ra, lễ khai mạc Hội Chợ Quê chấm dứt.
Hội hè như là sinh hoạt không thể thiếu ở thôn quê. Mỗi năm, đến ngày Tết Nhất, Lễ Hội là dịp mang lại cho người dân vui chơi để quên nỗi vất vả ruộng đồng quanh năm suốt tháng. Sau tuần lễ Hội, đồng quê cảnh vắng lại đâu vào đấy. Lại lam lũ cuốc cày, đợi ngày hội tới, hai năm sau.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét