THÀNH PHỐ GIÓ

Bạch Hạc Thành Phố Gió chào mừng Quý Khách


">

Nhãn

  • Ca nhạc (266)
  • Con người và thiên nhiên (52)
  • Địa Lý - Đất Nước (27)
  • Giới Thiệu (5)
  • Khoa Học - Kỹ Thuật (20)
  • Kiến Thức Phổ Thông (25)
  • Lễ Hội (78)
  • Lễ Hội - Phong tục (77)
  • Lịch Sử & Nhân Vật (62)
  • Lời Hay Ý Đẹp (45)
  • Nghệ Thuật (113)
  • Ngôn Ngữ (19)
  • Người Việt khắp nơi (57)
  • Sức Khỏe & Đời Sống (203)
  • Thắng Cảnh - Du Lịch (178)
  • Thơ (179)
  • Thực Phẩm (15)
  • Tôn Giáo (15)
  • Văn Hóa (4)
  • Văn Xuôi - Truyện Ký (155)
  • Video Chọn Lọc (34)
  • Vui Cười (33)
  • Xiếc - Ảo Thuật (31)

Chủ Nhật, 21 tháng 1, 2024

LƯỢC SỬ CỦA CON ĐƯỜNG CÁI QUAN

 LƯỢC SỬ CỦA CON ĐƯỜNG CÁI QUAN

André Salles


Đường Cái quan còn gọi là đường Quan lộ, đường Quan báo, đường Thiên lý [1], đường xuyên Việt, nay chính là Quốc lộ 1A, chạy dài từ km 0 tại cửa khẩu Hữu Nghị Quan (Lạng Sơn) đến km 2301 + 340m tại thị trấn Năm Căn (Năm Căn, Cà Mau) trên lãnh thổ Việt Nam. Được hình thành dưới thời nhà Lý và kéo dài cho đến tận thời Nguyễn, đường Cái quan đã đóng vai trò hết sức quan trọng trong kinh tế cũng như quốc phòng. Nó góp phần to lớn trong công tác quản lý đất nước. Do vậy, nhà Nguyễn đã đặc biệt chú trọng đến việc xây dựng và phát triển tuyến đường huyết mạch này.

Trên đèo Cả, đường Cái Quan ngày 23/4/1898.
1. Lịch sử hình thành:
Trước thời nhà Nguyễn:
Ở buổi đầu dựng nước và sau đó, Việt Nam là một nước chuyên về nông nghiệp, nhân dân chỉ sống trong vòng kinh tế “tự cung tự cấp”, nếu cần giao lưu từ vùng này sang vùng khác người ta thường sử dụng đường thủy. Song về mặt quản lý lãnh thổ, Nhà Nước vẫn phải có đường để nối liền các địa phương. Vì thế, đường bộ Việt Nam đã ra đời.
Trước khi có đường Cái quan, dưới thời Lý Thái Tông (ở ngôi: 1028-1054), ở Việt Nam đã có hệ thống đường Quan lộ. Mỗi tuyến đường được chia ra từng cung, có cắm biển gỗ để chỉ phương hướng, có người cai quản và đặt nhà trạm (tức dịch trạm, cách nhau khoảng 15 - 20 km), chủ yếu là để chuyển công văn [2], tài vật từ kinh đô đi khắp nơi và ngược lại. Đồng thời làm nơi nghỉ chân của các quan lại triều đình trên đường công cán.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân thì đường Cái quan chính thức được xây dựng vào năm Ất Mão (1375) dưới thời nhà Trần để nối liền kinh thành Thăng Long với Thanh Hóa. Đến thời nhà Hồ vào năm 1402, con đường được đắp tiếp vào đến Châu Hóa (Huế). Năm Tân Mão (1471), vua Lê Thánh Tông dẫn quân đi bình Chiêm. Sau chiến thắng Trà Bàn, đạo thừa tuyên Quảng Nam được thành lập vào tháng 6 (âm lịch) năm đó. Để tiện việc coi giữ, nhà vua đã cho tổ chức lại hệ thống giao thông liên lạc thông suốt từ Thăng Long cho đến phủ Hoài Nhơn (Bình Định) bằng đường bộ.
Năm Mậu Ngọ (1558), Đoan Quốc công Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm đất Thuận Quảng, tiếp theo là xảy ra cuộc tranh giành thế lực giữa họ Trịnh và họ Nguyễn (sử cũ gọi là thời Trịnh-Nguyễn phân tranh) kéo dài suốt 2, 5 thế kỷ. Để phục vụ cho chiến tranh, con đường này đã được đôi bên cho sửa sang, mở rộng. Sau đó, đường Cái quan được nối dài theo sự nghiệp mở nước về phương Nam của dân tộc Việt và vào khoảng 1757 dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát, con đường vào đến đất Hà Tiên.


Ba đường thiên lý của Sài Gòn xưa

Năm 1792, chúa Nguyễn Phúc Ánh (sau này là vua Gia Long) đã cho đắp đường từ Mỹ Tho qua giồng Kiến Định và bắc cầu Quỳ Tông. Trong năm này, ông đã huy động dân binh đắp đường thiên lý phía nam từ Gia Định dọc theo Giồng Cát xuống Trấn Định, qua Thủ Đoàn, giồng Cai Yến, giồng Tha La, giồng Kỳ Lân, giồng Cai Lữ, giồng Trà Luộc, giồng Cai Lễ, giồng Thủ Triệu, Cái Thia… Hai bên đường thiên lý đặt nhiều quán trạm.
Dưới thời nhà Nguyễn:
Đường Cái quan phát triển mạnh mẽ nhất là triều Nguyễn và thực sự trở thành “huyết mạch kinh tế và hệ thần kinh quản trị quốc gia”.
Sau thời kỳ Nam Bắc phân tranh kéo dài hàng mấy trăm năm, vua Gia Long thấy đường sá giao thông là vấn đề khẩn yếu cho việc chính trị và quân sự nên đã sai quan trấn nhậm các doanh trấn phải sửa chữa, bắc cầu ván qua sông suối và uốn thẳng lại con đường Thiên lý. Cụ thể là vào tháng 3 (âm lịch) năm 1809, nhà vua sai Nguyễn Huỳnh Đức và Lê Chất đi coi công việc sửa đắp đường cái quan các tỉnh là Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên và Khánh Hòa. Sách Quốc triều toát yếu (phần Chính biên) chép:
“…Ngài (Gia Long) nghĩ đàng cũ quanh co khiến Nguyễn Huỳnh Đức, Lê Chất giăng dây cho thẳng, bắt dân sửa lại, cho hoãn việc trưng binh, đình việc tạp tụng, chỗ nào có mồ mả thời cấp tiền cho dân dời đi chỗ khác và trồng cây hai bên đàng” [3].

Các trạm dịch vụ (T) trên đường thiên lý từ sông Hàn đến Huế

Đầu năm 1810, vua Gia Long lại sai Giám thành Nguyễn Văn Học lo việc sửa cầu cống đường sá ở các địa phương Quảng Đức (Thừa Thiên Huế), Quảng Trị, Quảng Bình. Công việc gồm có “đo xem thế đất, lấy dân sửa đắp, cấp cho (dân) lương ăn hàng ngày”. Vua lại dặn thêm Nguyễn Văn Học rằng “… trời mùa hè nóng nực, không nên đúc thốc (dân) làm quá để nới sức dân” [4].
Năm 1812, De la Bissachere trong “Etat actuel du Tonkin de la Cochinchine et les royaumes de Cambodge, Laos et Lac Tho” xuất bản ở Paris (Hiện trạng Bắc Kỳ, Nam Kỳ, các vương quốc Lào, Campuchia và Lạc Thổ) đã mô tả về con đường Cái quan lúc bấy giờ như sau: “… có một con đường lớn nối Phú Xuân và Đông Kinh (Hà Nội). Con đường này đẹp như đường châu Âu… đường tuy không lát gạch đá nhưng chỗ nào không vững chắc thì người ta đổ gạch, đá vụn và đóng cọc để củng cố; đường làm hơi vồng lên ở giữa để thoát nước ra hai vệ đường. Hai bên đường có rãnh thoát nước và trồng cây…”
Đến tháng 10 năm Ất Hợi (1815), vua Gia Long lại sai Tổng trấn Lê Văn Duyệt làm đường từ Sài Gòn đi về phía tây. Bắt đầu từ cửa Đoài Nguyệt ở phía tây thành Bát Quái qua cầu Tham Lương (đường Trường Chinh nay), qua bến đò Thị Sưu, qua đầm Lão Đống, giáp ngã ba đường sứ tới Khê Lăng đến đất Kha Pha (Cao Miên)… Chỗ gặp sông ngòi thì bắc cầu, đầm lầy thì đắp đất, gặp rừng thì đốn cây. Mặt đường rộng 6 tầm (12,72 m), đường thông suốt cho người và ngựa….
Tiếp tục sự nghiệp của vua cha, mới lên ngôi được hai năm (1821), vua Minh Mạng cho phép Bình Thuận huy động dân chúng đi phát chặt những cây rừng rậm rạp ở hai bên đường cái mở rộng thêm mỗi bên 10 tầm .
Năm 1832, vua Minh Mạng lại dụ cho bộ Công: “…đường cái quan có nhiều chỗ núi cao, lính trạm leo trèo, nhân dân đi lại, có nhiều khó khăn trở ngại. Vậy truyền lệnh cho các quan địa phương xem xét địa phận hạt mình, chỗ nào có đá lớn ngăn trở thì đốt cho nát phá bỏ đi, cốt rộng từ 4 – 5 thước trở lên, đủ đi lại được, chỗ nào vì nước mưa lụt chảy xói, lâu ngày thành trũng sâu thì lấy đá lấp đầy hoặc xây thành bậc cho được bằng phẳng rồi ủy cho phủ huyện thuê dân làm, trả công ưu hậu bằng tiền và gạo, rộng cho thời hạn cốt được thành công để lợi ích lâu dài” [5]
Năm 1835, vua Minh Mạng cho đắp các đường bộ ở các tỉnh Nam Kỳ dùng vào việc quan báo, khắc phục việc đi lại chủ yếu bằng đường thủy trước đây. Từ thành Định Tường còn có thêm 3 tuyến đường quan trọng khác: đường từ bắc thành Gia Định đến Định Tường, dài 10.800 trượng (từ Sài Gòn đi Cần Giuộc, Cần Đước, Gò Công, Chợ Gạo đến Mỹ Tho); đường từ cửa tây thành Định Tường đến địa giới tỉnh Vĩnh Long dài 6.600 trượng (từ Mỹ Tho cặp sông Tiền đến Cái Thia); đường từ đông nam thành Vĩnh Long đến địa giới Định Tường (từ Vĩnh Long đến bến đò sang Cái Thia).
Lúc bấy giờ, con đường cũng được chia thành nhiều cung, mỗi cung trung bình dài khoảng 25-30 dặm (15km-20km). Để có chỗ canh phòng, vận chuyển công văn giấy tờ, và làm nơi đón đưa quan lại trú đêm trên đường; ngay từ thời Gia Long, triều đình đã cho dựng ở giữa hai cung một nhà trạm gồm ba gian hai chái bằng gạch ngói hay cây lá theo cùng một kiểu do bộ Công quy định, có hào và tường bao bọc chung quanh, lại có chòi gác bốn phía. Trên cửa ra vào có treo biển khắc tên trạm. Ở mỗi trạm đều có nhiều phu trạm (khoảng 50 người) và ngựa (khoảng 3 con) để làm nhiệm vụ chuyển tải công văn giấy tờ, khiêng cáng và đồ dùng của quan lại qua đường. Quản lý và điều hành sự vụ các dịch trạm trên đường Thiên lý là chức năng của ty Bưu chính, còn việc đưa lệnh của triều đình và thu nhận báo cáo của các địa phương là nhiệm vụ của ty Thông chính sứ. Người của hai cơ quan này phải túc trực ngày đêm để điều hành công việc được thông suốt.

Đường thiên lý Bắc - Nam (màu đỏ) và các trạm dịch vụ trong bản đồ ANĐQHĐ (1858)

Nhìn chung, con đường Cái quan ngày trước cũng chỉ là con đường đất, chạy qua các làng mạc hoang vu, dân cư còn rất thưa thớt, qua những đèo dốc và rừng hoang. Khó khăn chính trên tuyến đường này là chưa bắc được nhiều cầu qua các sông suối, nhất là vào mùa mưa lũ. Và phương tiện đi lại, ngoài ngựa, võng, kiệu, cáng dành cho quan lại với một số xe bò, xe trâu chuyên chở hàng hóa, lương thực, còn hầu hết nhân công đi bộ mang vác.
Sau ngày Thất thủ Kinh đô (tháng 7 năm 1885), thực dân Pháp tiến hành mở rộng con đường đi qua đèo Hải Vân để nối liền cửa biển Đà Nẵng (nơi các chiến hạm của Pháp neo đậu) với Kinh đô Huế. Công trình do Đại úy công binh Besson đảm trách. Thực dân Pháp đã cưỡng bức nhân dân các làng xã lân cận đi làm đường mà không được trả công. Cho đến lúc nào làm xong phần đường của địa phương mình mới được trả về quê quán. Vì quá công phẫn cho nên vào cuối tháng 12 năm 1886, dân chúng đã nổi dậy giết chết viên Đại úy Besson và tiêu hủy toàn bộ các bản thiết kế cùng phương tiện để làm việc làm đường. Sau đó họ đồng lòng bỏ việc tập thể kéo nhau về lại quê hương. Bởi thế để hoàn thành đoạn đường Huế – Đà Nẵng, thực dân Pháp đã gặp nhiều thử thách hết sức khó khăn.
Đầu thế kỷ 20, thực dân Pháp chú tâm vào việc xây dựng và khai thác các tuyến đường sắt, còn đường bộ chúng bỏ lửng. Mãi cho đến sau năm 1912, Toàn quyền Sarraut mới chú ý trở lại. Năm 1918, thực dân Pháp ký nghị định chia đường bộ Việt Nam thành hai loại: đường thuộc địa (routes colonials) và đường địa phương (routes régionales). Đường thuộc địa (21 đường) do tổng ngân sách Đông Dương đài thọ, đường địa phương do các ngân sách các kỳ phụ trách.
Đường thuộc địa số 1 được vạch theo con đường Cái quan của nhà Nguyễn nối Hà Nội với Sài Gòn. Con đường Cái quan được điều chỉnh lại và mở rộng, lát đá, rải nhựa, xây cầu cống, bến phà và trở thành đường Quốc lộ 1A ngày nay.
2. Trong Văn học Nghệ thuật
Đường Cái quan đã được nhắc đến trong câu ca dao:
Đường cái là đường cái quan,
Chận em ra chợ làm tan chợ rồi.


Nguyễn Thông (1827-1884)
Danh sĩ Nguyễn Thông trong một chuyến đi ra Bình Thuận đã sáng tác bài Long Thành – Phước Tuy đồ trung hoài cảm, trong đó đã nói lên nỗi cực nhọc và hiểm nguy khi đi trên con đường này (dịch từ chữ Hán):
Ve kêu tự chốn nào?
Về tối giọng thêm sầu.
Khách đi mệt muốn nghỉ
Vắng vẻ chốn rừng sâu!
Bên đường hổ đói thét,
Mảnh áo giọt sương thâu…



Để thư giãn cuối tuần, xin mời Quý thính giả nghe lại: TRƯỜNG CA CON ĐƯỜNG CÁI QUAN (NS. Phạm Duy) và HÒN VỌNG PHU (NS. Lê Thương) www.youtube.com

TỦ SÁCH TINH HOA của Thái Hoàng Phi · 13 tháng 11, 2022

Hành trình trên đường Cái quan năm 1898 của André Salles 

Hình ảnh được ông Firmin André Salles, thanh tra thuộc địa kiêm nhiếp ảnh gia, chụp trong chuyến đi dọc đường Cái quan của mình.

Ảnh: Gallica.bnf.fr.

=

Cây cầu trên đường Cái Quan, giữa Tuy Hòa và đèo Cả, Phú Yên năm 1898.
Đoàn tùy tùng của ông André Salles trên đường Cái quan ở Nam Phú Yên.
Khung cảnh tại vũng Hào Sơn, phía Bắc đèo Cả.
Trạm Hòa Sơn ở chân đèo, phía bắc Đèo Cả.
Vượt qua đèo Cả, con đèo dài nhất trên đường Cái quan, ngày 23/4/1898.
Bên bờ vịnh Hòn Khói, Khánh Hòa.
Điểm dừng chân ở một ngôi chùa gần Phan Rí (Bình Thuận) ngày 6/5/1898. Đống đồ đạc là hành lý mang theo.
Các hương chức trong làng đến sân chùa bái lạy ông André Salles, cách chào đón truyền thống dành cho người có chức tước cao hơn.
Viên quan địa phương đến chào hỏi ông quan người Pháp.
Cổng ngôi chùa bên đường Cái quan, nơi nghỉ chân của ông André Salles.
Ruộng muối gần Phan Rí, nhìn từ đường Cái quan.
Trên bến Dương gần Phan Rí, 6/5/1898.
Một góc nhìn khác về bến Dương.
Người dân địa phương trên một con thuyền.
Chuẩn bị lên đường từ bến Duơng để đi thuyền buồm đến Cap St Jacques (Vũng Tàu).
Các nam giới địa phương trên chiếc thuyền buồm đi Vũng Tàu.
(Sưu tầm)

Người đăng: THÀNH PHỐ GIÓ vào lúc 15:27 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Địa Lý - Đất Nước

Thứ Bảy, 20 tháng 1, 2024

AMISH LÀ AI?

 AMISH LÀ AI?

Hồ đắc Vũ

theo Matthew Diebel, USA TODAY




Vụ bắt cóc và trở về của 2 cô gái người Amish tại New York lên báo, một lần nữa dư luận lại quan tâm đến dân “Amish”. Cảnh Sát phải cần họa sĩ để vẽ chân dung của các cô gái bị mất tích, vì dân Amish không được chụp hình, họ là những người từ chối sử dụng công nghệ, sống đơn giản, biệt lập, còn được gọi là dân “Pennsylvania Dutch” (Dân Hòa Lan ở Pennsylvania).

Thành phố Amish, indiana. nguồn: Patheos      

Dạo chơi bờ sông Charles, Boston, tôi gặp một nhóm người da trắng ngồi bên bãi cỏ xanh đầy nắng, họ vui chơi, thổi sáo, hát những ca khúc lạ tai. Các cô gái tóc vàng, mắt xanh, đẹp tự nhiên, không một chút son phấn, trang phục áo đầm dài màu đen, yếm choàng trắng, nón trắng, kiểu giống những người làm nông trại ở Âu Châu; đàn ông, nón đen, áo trắng quần đen, quai đen. Tôi chào, họ tươi cười chào lại, sao tôi vẫn thấy họ rất khác biệt với dân Mỹ thường gặp, hỏi ông ngồi bên

– Họ là dân Amish ở Mỹ.

Lịch sử người Amish ở Hoa Kỳ

Dân Amish đã có mặt ở Mỹ lâu lắm rồi. Người đầu tiên tới đây vào đầu thế kỷ 18 vì trốn khỏi cuộc thanh trừng tôn giáo ở Âu Châu và tìm đất sống. Amish là những người thuộc giáo phái Anabaptist của Giáo Chủ Jakob Ammann từ Thụy Sĩ lúc cuối thế kỷ 17, họ tin rằng “Các tín đồ phải tuân theo lời giáo huấn của Chúa” và “Từ bỏ thế giới” trong cuộc sống hằng ngày của họ. Tên Amish xuất từ tên của Giáo Chủ Ammann.

Gia đình Amish. nguồn: flowerpatchcottage.com

Ngôn ngữ

Người Amish sử dụng phương ngữ “Pennsylvania Dutch”, được phát triển từ ngôn ngữ của tổ tiên Thụy Sĩ và Đức, tuy nhiên, trong hơn 3 thế kỷ, ngôn ngữ của họ đã phát triển và thay đổi rất nhiều đến nỗi người nói tiếng Đức bản địa cũng khó mà hiểu được. Chữ “Dutch” (Hòa Lan) trong “Pennsylvania Dutch” không ám chỉ đến đất nước Hòa Lan với địa hình bằng phẳng và tràn ngập hoa, mà là “Deutsch” – tiếng Đức. “Pennsylvania Dutch” là một phương ngữ của Đức. Người Amish nói tiếng Đức nhưng cách phát âm không giống tiếng Đức bây giờ. Ngôn ngữ của họ còn bị ảnh hưởng bởi tiếng Anh do môi trường sống xung quanh. Một số người Amish, đặc biệt là ở tiểu bang Indiana, nói một thứ tiếng gần với tiếng Đức, Thụy Sĩ.

Nơi sinh sống

Với việc canh tác nông nghiệp là nền tảng căn bản trong cuộc sống, người Amish không bị ảnh hưởng bởi những lối sống hiện đại giữa một quốc gia tân tiến nhất thế giới. Họ luôn tìm kiếm những vùng đất mới cách xa các khu đô thị. Sau lần đầu định cư tại Ohio, bây giờ thì dân Amish có mặt trên 30 tiểu bang và cả Canada, Ohio đông nhất, sau đó là Pennsylvania và Indiana.

Đàn ông Amish. nguồn: beardoholic.com

Dân số

Dân Amish là một trong những nhóm có dân số gia tăng nhanh, khắp nước Mỹ. Theo phúc trình của Trung Tâm Thanh Niên Anabaptist và cuộc nghiên cứu tại Elizabethtown College ở Lancaster, Pa. Dân số Amish tăng trưởng từ 5,000 người năm 1920 tới gần 300,000 bây giờ. Vào năm 1984, chỉ có 84,000 người Amish, như vậy so với hiện tại đã tăng hơn 3 lần. Dân Amish coi một gia đình đông con như là phước lành Chúa ban và càng đông thì càng có nhiều sức lao động đáp ứng cho nghề nông của họ.

Công việc, thuế và nghĩa vụ quân sự

Với dân Amish, nông nghiệp là truyền thống lao động. Tuy nhiên, trong thế kỷ qua, theo phúc trình của Trung Tâm Trẻ Amish, số lượng người Amish tham gia vào công việc thương mại đã gia tăng nhiều, đáng kể nhất là nghề làm đồ gỗ, tủ bàn giường ghế và bán sản phẩm nông nghiệp. Họ cũng có những nhóm xây dựng, làm nhà cho những người không phải là Amish, đôi khi cũng có người làm việc tại hãng xưởng của người Mỹ, chẳng hạn như xưởng xe hơi, đặc biệt tại Indiana.

Họ cũng đóng thuế lợi tức của mình, thuế tài sản, thuế hàng hóa, thuế bất động sản và thuế trường học. Trên thực tế, nhiều người Amish trả thuế trường học 2 lần, cho cả trường công và trường tư.

Tuy nhiên, họ không nộp và cũng không nhận được tiền bảo hiểm xã hội. Quốc Hội đã miễn trừ cho dân Amish vào năm 1965, vì cho rằng đó là hình thức bảo hiểm thương mại. Dân Amish tin rằng những thành viên của nhà Thờ phải giúp đỡ về sức khỏe và vật chất cần thiết cho người trong cộng đồng.

Amish được miễn phục vụ trong Quân Đội vì niềm tin vô đối kháng, một thuật ngữ của chủ nghĩa hòa bình.

Trẻ em Amish. nguồn.humansarefree.com

Luật lệ

Cuộc sống của dân Amish được điều hành bởi “Quy tắc Ordnung” tiếng Đức nghĩa là “Tổ Chức”. Đây là luật bất thành văn của người Amish, trong đó nhấn mạnh sự khiêm tốn, nghe lời và giản dị. Họ phản đối bất cứ hình thức bạo lực nào, đồng thời tránh tham gia chiến tranh, quân đội. Họ cũng tránh dính líu đến pháp luật, muốn tha thứ nhiều hơn là trừng phạt. Luật lệ thay đổi tùy theo cộng đồng.

Từ chối công nghệ hiện đại

Với lối sống từ chối sử dụng mọi tiện nghi của nhân loại và trung thành với truyền thống cách đây từ hàng trăm năm, phần lớn cộng đồng người Amish bị cấm sở hữu xe hơi, không dùng điện từ các đường dây công cộng, không sử dụng các loại máy nông nghiệp tự động, không dùng tivi, đài phát thanh và máy tính, không học phổ thông và đại học, không tham gia quân đội và bài trừ việc ly hôn. Họ không được phép lắp điện thoại trong nhà, không dùng điện thoại di động. Gần đây, một số nơi cho phép người Amish sử dụng điện thoại bàn, một số nhà sẽ dùng chung một chiếc và để chúng ở một nhà kho bên ngoài nhà.

Đối với người Amish, việc chụp ảnh cũng bị cấm vì họ cho rằng điều đó nuôi dưỡng cho sự phù phiếm cá nhân. Họ tin rằng công nghệ sẽ khiến cộng đồng của mình bị đồng hóa bởi xã hội bên ngoài. “Người Amish lo sợ rằng, công nghệ và truyền thông hiện đại sẽ đưa các giá trị ngoại lai vào văn hóa của họ”, một bài báo trên trang web của Trung tâm Nghiên cứu cho biết.

Tin tức thế giới là chuyện cần thiết, nhưng họ lo sợ những giá trị khác biệt của nước ngoài sẽ xâm nhập vô nền văn hóa bảo thủ của mình.

Một số luật lệ của dân Amish gần như mâu thuẫn, chẳng hạn bình điện 12 volts của xe hơi được cho phép dùng trong nhiều cộng đồng, trong khi điện 120 volts thì cấm.

Một điều khác, dân Amish không được phép lái xe có động cơ, nhưng cho phép mướn người ngoài, như dân Mỹ lái cho họ.

Amish ở nông trại. nguồn: absolutehistory

Học vấn

Trẻ con Amish thường chỉ học tới lớp 8, hầu hết là trường tư, khoảng 10% học trường công. Họ có quyền chấm dứt đi học lúc 14 tuổi, điều này đã được Tòa Án Tối Cao Mỹ xác định theo luật năm 1972 bằng tiếng Anh và Đức của Amish.

Cộng đồng đa dạng

Dân Amish không phải là một nhóm người, họ có 4 cộng đồng khác nhau, “Nhóm đời cũ”, “Nhóm đời mới”, “Amish cách tân”, “Amish Mennonites”, còn nhiều chi nhánh phụ và theo luật lệ khác nhau từ 4 cộng đồng chính này, thí dụ như Beach Amish và Amish Mennonites dùng điện và sử dụng xe hơi, trong khi các cộng đồng khác vẫn xài xe ngựa.

Các cô Amish. nguồn: newsela

Trang phục

Y phục đơn điệu, ít màu mè, thường là trắng đen, xám, xanh là truyền thống của dân Amish, vài cộng đồng tuân thủ theo màu trắng đen, những nhóm khác thì dùng các màu nhẹ, họ ít dùng nút, vì họ cho rằng chúng có nguy cơ làm lộ cơ thể và muốn sự tự nhiên, thay vào đó áo quần dân Amish được dùng khuy thắt, móc nhỏ và ghim, những áo quần đặc biệt như áo choàng, áo khoác ngoài được dùng cho lễ nghi tôn giáo.

Quy ước

Giai đoạn duy nhất mà người Amish có thể thả lỏng và không thực hiện theo “Quy tắc Ordnung” được gọi là “rumspringa”, diễn ra trong khoảng thời gian ở độ tuổi 16, trước khi người Amish được rửa tội và chính thức gia nhập vào cộng đồng. Từ “rumspringa” trong tiếng Đức của Pennsylvania có nghĩa là “chạy rông”, vì đây là lần cuối người Amish có cuộc sống tự do trước khi vào khuôn phép. Theo truyền thống Amish, khi tới 16 tuổi, thanh niên bắt đầu quen biết, có quan hệ vui chơi bạn bè trai gái vào những ngày cuối tuần.

Đây cũng là giai đoạn quan trọng để thanh niên Amish quyết định xem họ có muốn gia nhập lâu dài vào cộng đồng hay không. Trong khoảng từ 18 đến 21 tuổi, nếu đồng ý gia nhập, họ sẽ được rửa tội. Nếu không, họ có thể rời khỏi cộng đồng người Amish.

Nông dân Amish. nguồn: wordpress.com


Người đăng: THÀNH PHỐ GIÓ vào lúc 19:16 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Con người và thiên nhiên

Thứ Tư, 10 tháng 1, 2024

NGUYỄN MẠNH TƯỜNG - NGƯỜI LẬP KỶ LỤC TRÊN ĐẤT PHÁP

Dương Trung Quốc
No photo description available.


Hiệu trưởng Trường Đại học Paris VII danh tiếng từng nói về Nguyễn Mạnh Tường: “Đã 60 năm qua, trên đất nước Pháp này, chưa có một sinh viên Pháp hay sinh viên quốc tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến: hai bằng Tiến sĩ nhà nước ở tuổi 22”.
☆
Đó là lời chào ấn tượng của vị hiệu trưởng dành cho người cựu học sinh quốc tịch Việt Nam, năm 1989, khi Nguyễn Mạnh Tường có dịp trở lại mảnh đất nơi ông đã thành tài.
1/. Luận văn là một kiệt tác.
Ngày 29.5.1932, nhật báo Le petit Meridional xuất bản ở thành phố Montpellier đăng bài diễn văn của Chủ tịch Hội đồng giám khảo trường Đại học của thành phố, nhận xét về luận án của một nghiên cứu sinh Việt Nam. Vị Chủ tịch phải thốt lên những lời mang tính ngoại lệ: “Luận văn của Ngài quả là một tác phẩm pháp lý, hơn nữa còn là một tác phẩm pháp lý và văn học. Nền tảng của tác phẩm thật là vững vàng và không hề có một lời chỉ trích nào. Cả hình thức cũng thật xán lạn… Công trình nghiên cứu của Ngài thực sự là một tác phẩm văn học hoàn chỉnh.
Đại học Montpellier rất hân hạnh được chứng kiến Ngài đã thành công huy hoàng trong cả hai khoa khác nhau. Cử nhân Luật khoa vào năm 22 tuổi, Ngài đã sẵn sàng để trở thành Tiến sĩ Văn chương. Điều đó thực sự lập nên một kỷ lục và trên đất Pháp này, người ta chưa từng thấy bao giờ một vị tiến sĩ văn chương 22 tuổi…
Còn đối với tác phẩm pháp lý của Ngài, chúng tôi chỉ có thể nói lên một lời duy nhất thật tốt đẹp và cũng thật đầy đủ rằng luận văn này thật mạnh mẽ, nó là một kiệt tác với đầy đủ ý nghĩa của từ này, nó làm chúng tôi phải suy nghĩ. Tác phẩm này thật xứng đáng với Ngài và nó làm vẻ vang cho tất cả Khoa Luật của trường đại học. Hội đồng giám khảo xin dành cho Ngài số điểm cao nhất và với lời phê: “Xuất sắc với lời khen ngợi của cả Hội đồng”.
Tên gọi của luận văn ấy là “Cá thể trong thành phố An Nam cổ xưa – tiểu luận tổng hợp về Bộ Luật của nhà Lê (thế kỷ XV)”. Và tác giả được Hội đồng trân trọng gọi bằng “Ngài” ấy là chàng trai Việt Nam 22 tuổi Nguyễn Mạnh Tường.
2/. Dư luận cảm phục – Thực dân e ngại.
Nguyễn Mạnh Tường sinh ngày 16.9.1909 tại phố Hàng Đào, vốn gốc ở xã Cổ Nhuế, huyện Từ Liêm, Hà Nội trong một gia đình rất coi trọng việc học. Ở tuổi 16, Nguyễn Mạnh Tường đã hoàn thành tấm bằng tú tài triết học loại ưu tại một trong những Trường trung học danh giá nhất Đông Dương, mang tên viên Toàn quyền Albert Sarraut. Cũng nhờ học lực xuất sắc mà mới 16 tuổi, cậu học trò Việt Nam ấy đã lên đường sang du học ở Pháp.
Chỉ ba tháng sau khi nhập học vào Trường Đại học Montpellier, ở tuổi 17, Nguyễn Mạnh Tường đã có trong tay Chứng chỉ Văn chương Pháp (Certificat de la Littérature Francaise) trước sự kinh ngạc của các thày trò người Pháp đối với tài học của một chàng trai bản xứ. Năm 19 tuổi, cậu lại đoạt bằng cử nhân văn chương hàng ưu đẳng khiến cho các thày dạy kính nể và tạo điều kiện cho Nguyễn Mạnh Tường lấy luôn mảnh bằng danh giá Tiến sĩ Văn chương Nhà nước Pháp.
Và đến năm 1932, bước qua tuổi 23, Nguyễn Mạnh Tường đã làm nên một kỳ tích như các thầy đã đánh giá: cùng một lúc đạt cả hai bằng Tiến sĩ Nhà nước Pháp trên cả hai bộ môn văn chương và luật học. Sự kiện liên quan đến một trí thức trẻ người thuộc địa gây sự cảm phục của dư luận bao nhiêu thì chính quyền thực dân cũng e ngại bấy nhiêu như lời doạ dẫm của một phần tử thực dân tên là Clémenti Vautel trên tờ “Nhật báo” (Journal): “Người Pháp nên cẩn thận. Để người Việt Nam được học và học giỏi như vậy, liệu về nước họ có chịu ngồi yên không?”.
3/. Một ấn tượng không bao giờ phai.
Quả y như rằng, Nguyễn Mạnh Tường về nước với những thành tích vang dội, dân chúng ngưỡng mộ, giới trí thức đón tiếp ông nồng nhiệt, nhưng học lực của ông vấp phải sự thờ ơ của chính quyền.
Lúc này, trong nước bắt đầu khủng hoảng kinh tế, phong trào cách mạng bị đàn áp đang lắng xuống. Không có ai trọng dụng, Nguyễn Mạnh Tường lại qua châu Âu thực hiện một chuyến đi khảo sát và tiếp tục học hỏi ở nhiều quốc gia như Tây Ban Nha, Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ, Anh, Bỉ, Đức, Áo-Hung… Đó cũng là thời kỳ ông sáng tác được nhiều cuốn sách viết bằng Pháp ngữ chất chứa trong đó khát khao hiểu biết và cống hiến của một người trẻ tuổi đang khắc khoải vì đất nước mình còn là thuộc địa của một quốc gia được coi là văn minh mà ông rất ngưỡng mộ.
Sau này, Nguyễn Mạnh Tường từng kể rằng, khi mới 23 tuổi, còn trẻ măng vừa về nước với hào quang danh dự mang từ chính quốc về, ông gặp một người luống tuổi ngang bậc cha chú của mình quỳ xuống vái ông và khẩn cầu ông đừng lấy cái tài của mình làm việc cho Tây. Sự việc đó đã để lại một ấn tượng không bao giờ phai trong ông.
Vì thế, năm 1936, khi ở chính quốc và Việt Nam dấy lên Phong trào Mặt trận Bình dân, Nguyễn Mạnh Tường đã về nước và tham gia giảng dạy tại một trường trung học danh giá nhất dành cho người Việt Nam và sau này cung cấp nhiều nhà cách mạng: Trường Bưởi (mà ngày nay mang tên Chu Văn An).
Ông dạy các bộ môn kinh điển của nền văn hoá phương Tây liên quan đến văn chương và luật pháp. Đồng thời ông cũng mở văn phòng luật sư được nhiều người biết đến ở đường Gambetta (nay là Trần Hưng Đạo), Hà Nội. Nguyễn Mạnh Tường có một số bài giảng tại Đại học Đông Dương như một ngoại lệ dành cho một tri thức thuộc địa.
4/. Góp phần quảng bá Việt Nam kiên cường, trí tuệ.
Cách mạng tháng Tám bùng nổ mở ra cho Nguyễn Mạnh Tường cơ hội cống hiến cho Tổ quốc. Ông được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời tham gia Đoàn đại biểu Việt Nam dự Hội nghị Đà Lạt nhằm ngăn chặn âm mưu tái chiếm thuộc địa của thực dân Pháp cùng nhiều trí thức yêu nước khác như Hoàng Xuân Hãn, Vũ Văn Hiền… và cả những nhà hoạt động chính trị theo nhiều khuynh hướng như Nguyễn Tường Tam (trưởng đoàn) và Võ Nguyên Giáp (phó đoàn). Trong bối cảnh ấy, cái mẫu số chung là tinh thần ái quốc đã gắn kết họ lại trong một mục tiêu chung là bảo vệ nền độc lập.
Chiến tranh bùng nổ, Nguyễn Mạnh Tường cũng như số đông trí thức Việt Nam khác chấp nhận cuộc sống và chiến đấu gian khổ ngoài chiến khu.
Với tầm kiến thức rộng lớn, ông tham gia vào các Đoàn Đại biểu của nhà nước kháng chiến dự Hội nghị Bảo vệ Hoà bình ở Bắc Kinh (1952), Đại hội Hoà bình Thế giới ở Vienna (1953), rồi làm trưởng đoàn Việt Nam tham dự Hội nghị Luật gia Dân chủ Thế giới ở Bruxelles. Lập luận và hiểu biết của Nguyễn Mạnh Tường đã góp phần làm cho thế giới biết đến một Việt Nam kháng chiến, kiên cường và trí tuệ…
5/. Những tháng năm sóng gió.
Kháng chiến thành công, vị giáo sư được nhà nước cách mạng phong bước lên bục giảng Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Những tưởng cơ hội để Nguyễn Mạnh Tường có thể đóng góp nhiều nhất cho nền giáo dục và học thuật của nước nhà nhưng cuộc đời trớ trêu lại đẩy ông đến một bi kịch lớn.
Vị giáo sư đầy trí tuệ nhưng lại không đủ khả năng vượt qua những thử thách trên con đường phát triển của đất nước giữa lúc vừa lo xây dựng đất nước theo một mô hình chưa rõ ràng, đầy những khúc quanh và cạm bẫy của những sai lầm tả khuynh, lại vừa phải đi tiếp cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước vô cùng gian khổ. Đó là thời kỳ mà những lời nói thẳng luôn bị va đập vào bức tường của những giáo điều.
Nguyễn Mạnh Tường không những không phát huy được những điều ông học hỏi và tích lũy được cho đến độ mà ông đã nhiệt tâm phụng sự mà còn rơi vào những khủng hoảng về tư tưởng và gánh chịu nhiều thử thách mà chỉ có những người trí thức thực tâm yêu nước như ông mới vượt qua nổi.
Chính trong thời gian đầy sóng gió này, ông đã dồn tâm lực vào những công trình như một sự hồi cố về một thời nhớ nhung (nostalgie) rực rỡ hào quang: “Lý luận giáo dục châu Âu từ Erasme đến Rousseau thế kỷ XVI” (NXB KHXH, 1994), “Eschyle và bi kịch cổ đại Hy Lạp” (NXB Giáo dục, 1996), “Virgille, nhà thơ vĩ đại của thời kỳ La Mã cổ đại” (NXB KHXH, 1996).
6/. Một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ noi theo.
Năm 1989, Nguyễn Mạnh Tường có dịp trở lại mảnh đất nơi ông đã thành tài. Hiệu trưởng Trường Đại học Paris VII danh tiếng đã chào cựu học sinh của nhà trường bằng một lời văn đầy ấn tượng: “Đã 60 năm qua, trên đất nước Pháp này chưa có một sinh viên Pháp hay một sinh viên quốc tế nào phá được kỷ lục của Giáo sư kính mến: hai bằng Tiến sĩ nhà nước ở tuổi 22” và mời Nguyễn Mạnh Tường nói trọn một ngày cho sinh viên nhà trường về cách học của mình.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường đã qua đời, tấm gương trí tuệ cũng là kỷ lục ông đã giành được khi trai trẻ và ngay cả cái bi kịch mà ông đã trải qua ở một thời kỳ đầy thử thách cũng mãi mãi là một bài học sâu sắc về số phận người trí thức trước những thăng trầm của đất nước mà chỉ có lòng yêu nước cùng lòng tự trọng của người có học mới vượt qua nổi, để nguyên vẹn cho đời sau một tên tuổi đáng kính trọng nhưng không dễ noi theo.

(*) Ảnh - Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường (1909 – 1997) là một luật sư, nhà giáo dục, nhà nghiên cứu văn học Việt Nam. Ông sinh ngày 16.9.1909 và mất ngày 13.6.1997 tại Hà Nội. 

Người đăng: THÀNH PHỐ GIÓ vào lúc 15:13 Không có nhận xét nào:
Gửi email bài đăng nàyBlogThis!Chia sẻ lên XChia sẻ lên FacebookChia sẻ lên Pinterest
Nhãn: Lịch Sử & Nhân Vật
Bài đăng mới hơn Bài đăng cũ hơn Trang chủ
Đăng ký: Bài đăng (Atom)

REVOLVERMAPS

BÂY GIỜ LÀ

Bạn là Người xem thứ

30 Bài Mới Nhất

  • BÙI VIỆN VÀ GIẤC MỘNG CƯỜNG QUỐC ĐẠI NAM DANG DỞ
  • CHIỀU BÊN GIÁO ĐƯỜNG
  • MỪNG LỄ ĐỘC LẬP HOA KỲ
  • XUÂN VỀ
  • XUÂN ĐÃ VỀ
  • TRẦN VĂN KHÊ: NGÀI CHƠI VỚI AI MÀ KHÔNG BIẾT MỘT ÁNG VĂN NÀO CỦA NƯỚC VIỆT ?
  • NHỚ TẾT
  • MÙA THU KHÔNG TRỞ LẠI
  • ẢNH TẾT NĂM 1920
  • TA CỨ TƯỞNG...

Trang

  • Trang chủ
  • Weblinks
  • Nhạc Chọn Lọc
  • Vui Cười

Tuấn Ngọc Album


Bài Đăng Theo Tháng

  • ▼  2024 (10)
    • ►  tháng 11 (1)
    • ►  tháng 3 (3)
    • ►  tháng 2 (2)
    • ▼  tháng 1 (4)
      • LƯỢC SỬ CỦA CON ĐƯỜNG CÁI QUAN
      • AMISH LÀ AI?
      • NGUYỄN MẠNH TƯỜNG - NGƯỜI LẬP KỶ LỤC TRÊN ĐẤT PHÁP...
      • MỘT HỌ LỚN KHÔNG THAY ĐỔIĐoàn Như Tùng Tony
  • ►  2023 (33)
    • ►  tháng 12 (3)
    • ►  tháng 11 (4)
    • ►  tháng 10 (1)
    • ►  tháng 9 (3)
    • ►  tháng 8 (3)
    • ►  tháng 7 (1)
    • ►  tháng 5 (3)
    • ►  tháng 3 (6)
    • ►  tháng 2 (5)
    • ►  tháng 1 (4)
  • ►  2022 (61)
    • ►  tháng 12 (3)
    • ►  tháng 11 (3)
    • ►  tháng 10 (4)
    • ►  tháng 9 (7)
    • ►  tháng 8 (11)
    • ►  tháng 7 (3)
    • ►  tháng 6 (5)
    • ►  tháng 5 (7)
    • ►  tháng 4 (6)
    • ►  tháng 3 (2)
    • ►  tháng 2 (4)
    • ►  tháng 1 (6)
  • ►  2021 (96)
    • ►  tháng 12 (11)
    • ►  tháng 11 (6)
    • ►  tháng 10 (8)
    • ►  tháng 9 (5)
    • ►  tháng 8 (1)
    • ►  tháng 7 (10)
    • ►  tháng 6 (11)
    • ►  tháng 5 (9)
    • ►  tháng 4 (3)
    • ►  tháng 3 (7)
    • ►  tháng 2 (17)
    • ►  tháng 1 (8)
  • ►  2020 (97)
    • ►  tháng 12 (6)
    • ►  tháng 11 (10)
    • ►  tháng 10 (1)
    • ►  tháng 9 (3)
    • ►  tháng 8 (10)
    • ►  tháng 7 (8)
    • ►  tháng 6 (5)
    • ►  tháng 5 (16)
    • ►  tháng 4 (16)
    • ►  tháng 3 (10)
    • ►  tháng 2 (7)
    • ►  tháng 1 (5)
  • ►  2019 (93)
    • ►  tháng 12 (6)
    • ►  tháng 11 (6)
    • ►  tháng 10 (8)
    • ►  tháng 9 (2)
    • ►  tháng 8 (1)
    • ►  tháng 7 (12)
    • ►  tháng 6 (9)
    • ►  tháng 5 (8)
    • ►  tháng 4 (11)
    • ►  tháng 3 (8)
    • ►  tháng 2 (5)
    • ►  tháng 1 (17)
  • ►  2018 (133)
    • ►  tháng 12 (7)
    • ►  tháng 11 (6)
    • ►  tháng 10 (11)
    • ►  tháng 9 (11)
    • ►  tháng 8 (8)
    • ►  tháng 7 (10)
    • ►  tháng 6 (5)
    • ►  tháng 5 (18)
    • ►  tháng 4 (11)
    • ►  tháng 3 (14)
    • ►  tháng 2 (16)
    • ►  tháng 1 (16)
  • ►  2017 (164)
    • ►  tháng 12 (18)
    • ►  tháng 11 (12)
    • ►  tháng 10 (11)
    • ►  tháng 9 (8)
    • ►  tháng 8 (6)
    • ►  tháng 7 (12)
    • ►  tháng 6 (11)
    • ►  tháng 5 (22)
    • ►  tháng 4 (7)
    • ►  tháng 3 (9)
    • ►  tháng 2 (16)
    • ►  tháng 1 (32)
  • ►  2016 (198)
    • ►  tháng 12 (17)
    • ►  tháng 11 (23)
    • ►  tháng 10 (24)
    • ►  tháng 9 (10)
    • ►  tháng 8 (12)
    • ►  tháng 7 (14)
    • ►  tháng 6 (14)
    • ►  tháng 5 (15)
    • ►  tháng 4 (15)
    • ►  tháng 3 (10)
    • ►  tháng 2 (25)
    • ►  tháng 1 (19)
  • ►  2015 (278)
    • ►  tháng 12 (19)
    • ►  tháng 11 (23)
    • ►  tháng 10 (19)
    • ►  tháng 9 (16)
    • ►  tháng 8 (19)
    • ►  tháng 7 (16)
    • ►  tháng 6 (31)
    • ►  tháng 5 (23)
    • ►  tháng 4 (29)
    • ►  tháng 3 (30)
    • ►  tháng 2 (31)
    • ►  tháng 1 (22)
  • ►  2014 (232)
    • ►  tháng 12 (18)
    • ►  tháng 11 (25)
    • ►  tháng 10 (18)
    • ►  tháng 9 (10)
    • ►  tháng 8 (24)
    • ►  tháng 7 (21)
    • ►  tháng 6 (28)
    • ►  tháng 5 (34)
    • ►  tháng 4 (20)
    • ►  tháng 3 (10)
    • ►  tháng 2 (13)
    • ►  tháng 1 (11)
  • ►  2013 (255)
    • ►  tháng 12 (21)
    • ►  tháng 11 (15)
    • ►  tháng 10 (14)
    • ►  tháng 9 (2)
    • ►  tháng 8 (10)
    • ►  tháng 7 (10)
    • ►  tháng 6 (9)
    • ►  tháng 5 (4)
    • ►  tháng 4 (5)
    • ►  tháng 3 (3)
    • ►  tháng 2 (11)
    • ►  tháng 1 (151)
  • ►  2012 (55)
    • ►  tháng 12 (55)

Gallery Of Art

BLOG YÊU THÍCH

  • Anne Khánh Vân
  • Cao Niên Việt Hạc
  • Chia sẽ kiến thức văn hóa
  • Lãng Phong
  • Lê thị Kim Oanh
  • Long Hồ Vĩnh Long
  • Mai Thanh Truyet Envirovn
  • Người Phương Nam
  • Nhìn Ra Bốn Phương
  • Tản Mạn Đó Đây

Contact

THÀNH PHỐ GIÓ
Xem hồ sơ hoàn chỉnh của tôi

Liên kết

  • lylang.blogspot.com

Người theo dõi

Nhận xét

Đăng nhận xét

https://www.blogger.com/profile/13855471094959620238 Mời bạn click vào hàng chữ "không có nhận xét nào" bên trên đẻ ghi nhận xét của mình vào.
Đăng nhận xét. Chủ đề Cửa sổ hình ảnh. Được tạo bởi Blogger.