CÁC CỤ SAIGON XƯA, TRỞ VỀ DĨ VÃNG
BS Trần Ngọc Quang
Từ hơn một thế kỷ nay, nước Việt Nam đã chịu
rất nhiều thay đổi về chánh trị, hành chánh, văn hóa, xã hội…. luôn cả tên đường
của Sài Gòn. Nhiều đường đã thay đổi tên hai, ba lần và vài đường mang tên các
vị anh hùng hồi đời nhà Nguyễn đều biến mất. Vài người Việt ở nước ngoài khi trở
về nước gặp nhiều khó khăn mới tìm lại được nhà mình đã ở lúc trước. Những bạn
sanh ra sau 1975 lại không thể hình dung các tên đường thuở trước chứ nói chi đến
lịch sử và tiểu sử của các vị đó. Riêng tôi, nhờ những kỷ niệm in sâu vào óc từ
thuở niên thiếu và lại có tánh tò mò muốn biết thêm lịch sử nên tôi cố gắng nhắc
lại đây vài tên đường để công hiến các bạn độc giả và xin ngọn gió bốn phương
cho biết thêm ý kiến để chỉnh sửa về sau.
Tôi sanh ra tại nhà bảo sanh của Bác Sĩ
Lâm Văn Bổn số 205 đường Frère Louis, gần chợ Thái Bình thuộc Quận 3 thuở đó của
Đô Thành Sài Gòn, vào thời Đông Dương sắp có chiến lửa binh đao, chín tháng
trước khi Trân Châu Cảng chìm trong khói lửa. Lúc đó, Việt Nam còn là một thuộc
địa của Pháp Quốc và nhiều đường Sài Gòn mang tên Pháp.
Tôi lớn lên tại Sài Gòn ở số 148 đường
Colonel Boudonnet dọc theo đường rầy xe lửa, sau nầy đổi tên là Lê Lai cho tới nay. Đường lấy tên của Đại Tá Théodore Boudonnet thuộc Sư Đoàn 2 Bộ Binh Thuộc-Địa
và Tư lệnh Sư Đoàn Bộ Binh An Nam, tử trận bên Pháp hồi 1914. Mặt đất đường nầy
thấp hơn các đường Frère Louis, Phan Thanh Giản và Frères Guillerault nên mỗi
khi mưa lớn là đường bị ngập. “Nhờ vậy” mà sau khi tạnh mưa, dọc theo bức tường
ngăn đường rầy và đường lộ những con dế từ đất chui ra hang để khỏi bị ngộp nên tôi đi bắt đến khuya mới về, ít lắm là ba bốn con và thường bị mẹ tôi quở
trách.
Sau khi “chạy giặc” hồi 1945, vì máy bay đồng
minh oanh tạc nhà ga và đường rầy xe lửa để chận tiếp tế cho quân Nhựt, gia
đình tôi trở về sống tạm trước Nhà thờ “Huyện Sỹ” đường Frères Guillerault và
năm sau thì dọn trở về lại hẻm 176/11 đường Colonel Boudonnet.
Nhà thờ Huyện Sỹ xây cất năm 1905. Ông Huyện Sỹ là
người giàu có ở vùng Gò Công, tên thật là Lê Phát Đạt và là Ông ngoại của Nam
Phương Hoàng Hậu tức là vợ của Hoàng Đế Bảo Đại.
Gần nhà thờ Huyện Sỹ có hai đường mang
tên Frère nhưng nếu Frère Louis là để tưởng nhớ đến Thầy Louis
Gaubert lập ra trường Taberd và đường Frères Guillerault (có chữ “S” sau Frères)
là để tưởng nhớ đến hai anh em Roland và Léon Guillerault sinh trưởng tại Sài
Gòn và tử trận trong Đệ Nhứt Thế Chiến bên Pháp.
Trong lúc “tản cư”, tôi đi học lớp chót trường
làng tại quận Hóc Môn và vì một sự tình cờ mà Ba tôi ghi cho tôi học tiếp miển
phí lớp “Douzième” trường Chasseloup-Laubat thay vì Pétrus Ký như Ba tôi. ”Trường
Chasseloup” xây cất trong ba năm tại nơi rạp hát bội của Tả Quân Lê Văn Duyệt. Lúc
đầu, trường mang tên Collège Indigène de Saigon nhưng khi khánh thành năm 1877 thì đổi
lại là Collège Chasseloup-Laubat và từ 1928, trở thành Lycée có nghĩa là luyện
thi đến lớp Tú Tài, mang tên của Hầu Tước Justin De Chasseloup Laubat, Bộ Trưởng
Bộ Hải Quân và Thuộc Địa dưới thời Napoléon III, người quyết tâm chiếm và giữ
Nam Kỳ. Hồi 1946, quân đội Pháp mới trở lại Việt Nam nên ít có gia đình và trẻ
con Pháp sống tại Sài Gòn nên dư giáo viên mà thiếu học trò. Lớp 12è niên khoá
1946-1947, trai và gái học chung tại Collège Calmette gần đó. Sau đó vài năm, trường
nầy đổi tên là Lycée Marie Curie cho đến ngày nay. Tôi còn nhớ lúc ra về, tôi chạy
nhanh ra cổng, không phải để tìm Ba tôi, thường người ra sở trễ và đi xe đạp từ
“Toà Tân Đáo” (Sở Ngoại Kiều) ở đường Georges Guynemer dưới Chợ Cũ lên rước
tôi mà là để tranh thủ thời gian đi cạo mủ cao su !
Thật vậy, giữa trung tâm thành phố Sài Gòn
không hiểu ông Tây nào có ý kiến trồng cây cao su theo hai bên đường
Jauréguiberry cho có bóng mát? Bernard Jauréguiberry là một Đề Đốc Pháp đã
đánh vào Đà Nẳng và chiếm thành Gia Định, về sau giữ chức Thượng Nghị Sĩ và Bộ
Trưởng Bộ Hải Quân, mà tại sao lại đặt tên cho một đường nhỏ bên hông trường
Calmette? Nhưng dù sao đi nữa những cây cao su đó, sau khi lấy đá đập vào vỏ
thì chảy ra mủ trắng rất nhiều. Tôi trét mủ ấy trên cập táp da của tôi rồi khi
mủ khô thì cuốn tròn quanh một cục sỏi và ngày qua ngày, nó trở thành một trái banh
nhỏ.
Như vậy tôi thuộc vào thành phần “Nam Kỳ
chánh cống” và “dân Sài Gòn một trăm phần trăm”, lớp tuổi gần 70 và sống tại
Saigon trong 34 năm. Những bạn lớn hơn tôi vài tuổi và những bạn gốc “Bắc trước
năm mươi tư” mới biết tên đường cũ như tôi, các bạn khác ráng mà tìm các tên
trong trang sau cùng! Không phải tôi bị “tây hóa” nên không chịu dùng tên Việt
Nam nhưng các tên đường cũ đả khắc sâu vào trí nhớ tuổi thơ của tôi. Hơn nữa, lúc trẻ tôi hay tìm tòi trong tự điển Larousse coi ông hay bà nầy là ai mà họ đặt tên
đường; sau thế hệ của chúng tôi, ít còn ai nhớ đến tên những con đường Sài Gòn
năm xưa…
Mẹ tôi có thuê một cyclo để đi làm và đưa
tôi đi học tại trường Chasseloup, “Chú Ba Xích Lô” mỗi ngày chạy ra phía nhà ga
Sài Gòn theo đường Colonel Boudonnet, sau khi qua rạp hát Aristo, nay là New
World Hotel, quẹo trái qua đường Chemin des Dames và băng qua đường Lacote (chớ
không phải Lacotte, Moïse Lacote là cựu Trưởng Ban Hành Chánh vùng Gia Định và
Giám Đốc Thuế Vụ Nam Kỳ vào năm 1896) hoặc theo đưòng Amiral Roze (người đã từng
tấn công Nam Hàn) để đi thẳng tới đường Gia Long, tên của đường La Grandière
vào khoảng ấy (Đề Đốc Pierre De La Grandière thay thế Đề Đốc Bonard là một
trong những Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ, Ông tự động đi chiếm xứ Cambodge năm
1863 mà không có lệnh của Hoàng Đế Napoléon III và cũng chính Ông đã chiếm ba tỉnh
miền Tây năm 1867 làm cho Cụ Thống Tướng Phan Thanh Giản phải đầu hàng và sau
đó tự vận; dưới thời Đề Đốc De La Grandière Sài Gòn phát triển mạnh mẽ).
Chú Ba Xích Lô xuyên qua vườn “Bờ Rô” để
có bóng mát rồi ra đường Larégnère, sau nầy là đường Đoàn Thị Điểm. Tôi không
biết tại sao người ta kêu công viên đó bằng tên ấy, có thể là phiên âm của chữ
“préau (sân lót gạch) nhưng theo học giả Trần Văn Xướng thì do Ông “Moreau”,
tên của người quản thủ Pháp đầu tiên chăm nom vườn nầy; thuở trước các người lớn
tuổi còn gọi là “vườn Ông Thượng”, có thể là vì trước kia Tả Quân Lê Văn Duyệt
là người tạo ra vườn nầy. Dưới thời Pháp thuộc, vườn “Bờ Rô” nằm trong khu đất của
dinh Thống Đốc nhưng vào năm 1869, Phó Đề Đốc Hector Ohier, người thay thế Đề Đốc
De La Grandière, cắt chia đất và tặng thành phố vườn nầy mang tên Parc Maurice
Long. Mười năm sau đường Miss Cavell được tạo ra, lúc đó mang tên Rue de la
Pépinière, để biệt lập với dinh Thống Đốc mà sau nầy là Palais Norodom và sau
1954 trở thành Dinh Độc Lập rồi Dinh Thống Nhứt sau 1975. Cũng có thể tên “Ông
Thượng” là Ông Ohier, có tên đường dưới chợ cũ, nhưng tới đời tôi chỉ gọi vườn
đó là “vườn Bờ Rổ”, sau nầy mang tên vườn Tao Đàn.
Ra vườn Bờ Rô gặp đường Chasseloup-Laubat
rồi đi thẳng trên đường Larégnère, sau đó tới đường Testard: hai tên nầy ở gần
nhau cũng đúng vì Trung Tá Bộ Binh Jules Testard và Thiếu Úy Hải Quân Etienne
Larégnère, 31 tuổi (chớ không phải Lareynière hay Laraignère) tử vong cùng một
trận đánh ác liệt tại Đồn Kỳ Hòa ở vùng trường đua Phú Thọ giữa lực lượng của
Thống Tướng Nguyễn Tri Phương và Đô Đôc Victor Charner năm 1861. Ai cũng biết
đường Chasseloup-Laubat, một đường chiến lược rất dài đi từ Chợ Lớn, từ đường
11è R.I.C (Régiment d’Infanterie Coloniale) đến Thị Nghè, sau 1955, đường nầy đổi
tên là Hồng Thập Tự.
Đi thẳng đến đường Testard, chú Ba quẹo mặt
và bỏ tôi xuống ở góc đường Barbé vì học sinh vào trường Chasseloup bằng cửa
sau. Góc đường nầy sẽ liên hệ nhiều với tôi sau nầy khi tôi trở thành sinh viên
y-khoa. Đường Barbé (chớ không phải Barbet ) có từ lâu và mang tên của Đại Úy
Nicolas Barbé thuộc Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Pháp bị Ông Trương Định cho ông Nguyễn Văn Sất ám sát vào năm 1860 gần chùa Khải Tường, nơi vua Minh Mạng
sanh ra năm 1791 lúc Nguyễn Ánh chạy lọan vào miền nam để tránh anh em Tây Sơn.
Chùa nầy do Nguyễn Ánh sau khi trở thành vua Gia Long ra lệnh xây cất để tạ ơn
Phật Trời đã che chở cho con trai là Nguyễn Phúc Đàm (vua Minh Mạng sau nầy). Sau đó, chùa được lập làm đồn chống Pháp nên bị lính Pháp phá dẹp hồi 1880, pho
tượng Phật hiện còn lưu niệm trong Viện Bảo Tàng Sài Gòn tại Sở Thú. Trên nền
chùa bỏ hoang nầy về sau có cất lên một biệt thự lầu lớn kiểu âu-châu tại số 28
đường Testard mà Bà Bác Sĩ Henriette Bùi (con gái thứ ba của Ông Bùi Quang
Chiêu) mướn lại của người chủ là một luật sư người Pháp làm dưỡng đường sản-phụ
khoa vào thập niên 1940. Ông Bùi Quang Chiêu (1872-1945) là kỹ sư canh nông Việt
Nam đầu tiên tốt nghiệp bên Pháp năm 1897 và bị Trần Văn Giàu (phong trào Việt
Minh) ám sát cùng ba người con trai vào tháng 9 năm 1945. Còn Bà Henriette Bùi
Quang Chiêu sanh năm 1906 là người đàn bà Việt Nam đầu tiên tốt nghiệp y-khoa
bác sĩ tại Paris năm 1929, nay Bà đã 103 tuổi và hiện còn minh mẩn và sống tại
ngoại ô Paris. Bà kể lại rằng vào năm 1943, nhà nầy được bán lại cho một người
Do Thái tên là David, chủ của nhiều biệt thự tại Sài Gòn. Vào đầu năm 1945, chánh
phủ Pháp trưng dụng nhà nầy và cho Bà thuê một biệt thự khác ở đưởng Blancsubé
để dời dưỡng đường đến đấy. Tháng 3 năm 1945, Nhựt đảo chánh Pháp và tịch thu
căn villa nầy. Khi Pháp trở lại thì trao cho Viện Đại Học Sài Gòn để rồi năm
1947, nơi nầy trở thành chi nhánh của Đại Học Y-Dược Khoa Hà Nội rồi năm 1954
thành Đại Học Y-Dược Khoa Saigon, nơi tôi được đào tạo trong sáu năm với GS Phạm
Biểu Tâm làm Khoa Trưởng. Nơi đầy kỷ niệm nầy nay là Bảo Tàng chứng tích chiến
tranh.
Lớn lên tôi đi xe đạp về một mình nhưng
thích đi theo đường Testard hơn vì có bóng mát dưới hàng cây me, song song với
đường Richaud (sau đổi lại đường Phan Đình Phùng) và thường ghé biệt thự số 6
đường Eyriaud des Vergnes (sau là Trương Minh Giảng) chơi với một bạn học cùng
lớp, nhứt là vào mùa các cây trứng cá có trái. Ông Etienne Richaud là một Toàn
Quyền Đông Dương hồi cuối thế kỷ XIX, còn Ông Alfred Eyriaud Des Vergnes người
gốc Châteauroux là Kỹ Sư Trưởng Nha Công Chánh Nam kỳ (Cochinchine), Ông là một
thần đồng tốt nghiệp trường Polytechnique tại Paris lúc 17 tuổi, sau đó học trường
Ponts et Chaussées, ra lệnh lấp kinh Charner, tạo hệ thống cống dài 7 km, cất
12 cầu theo “Kinh Tàu” (Arroyo chinois nối liền với rạch Bến Nghé chảy ra sông
Sài Gòn). Ông Eyriaud Des Vergnes là người đầu tiên có ý lập ra đường sắt tại
Việt Nam chạy lên Cambodge nhưng kế hoạch không thành. Về sau, nhờ Kỹ Sư
Thévenet Giám Đốc Nha Công Chánh Nam Kỳ và sự hỗ trợ của Cố Vấn chánh phủ Paul
Blanchy mà Việt Nam có đường sắt đầu tiên đi từ Sài Gòn đến Mỹ Tho năm 1885.
Hai người nầy cũng có tên đường và sau 1955 đổi lại là Tú Xưong (Thévenet) và
Hai Bà Trưng (Paul Blanchy).
Sau khi qua đường Pierre Flandin (tên của
một “đứa con” của Sài Gòn tuy sanh tại vùng Vaucluse và tử trận tại Noyon, tỉnh
Oise, miền bắc nước Pháp vào năm 1917) đến cuối đường, gặp rạp hát Nam Quang
(nay vẫn còn), tôi quẹo trái ra đường Verdun (khoảng đó tên là đường Thái Lập
Thành) đến ngã sáu Sài Gòn thì tôi lại đi qua đường Frère Louis để về nhà bằng
đường d’Ypres cho vắng xe. Đường nhỏ nầy ở sau “Mả Lá Gẫm”, đúng hơn là của Ông
Mathieu Lê Văn Gẫm, có bức tượng trong nhà thờ Huyện Sỹ, tử đạo thời vua Thiệu
Trị vì bị hành hình lối năm 1847; mả đó nay vẫn còn nguyên tuy bị che khuất. Ypres là tên một thành phố nhỏ bên vương quốc Bỉ như thành phố Dixmude, nơi đã
xẩy ra những trận đánh lớn hồi Đệ Nhứt Thế Chiến.
Đi xích lô mỗi ngày như vậy hoài cũng chán
nên tôi thường đề nghị với Chú Ba đi về bằng ngả khác. Thuở ấy, đường phố ít xe
hơn bây giờ vì Sài Gòn và Chợ Lớn không hơn một triệu dân cư. Tôi thích nhứt đi
về nhà qua chợ Sài Gòn: Chú Ba tránh đường Mac Mahon (sau 1952, đoạn nầy lấy
tên De Lattre de Tassigny và sau đó là Công Lý) để đi đường Barbé và một đoạn đường
Chasseloup-Laubat rồi quẹo trái qua đường Miss Cavell với hàng cây cao bên
hông Cercle Sportif Saigonnais (tên không phải viết Cawell hay Cavel vì Edith
Cavell là một nữ y-tá người Anh bị quân Đức xử bắn tại Bỉ vào năm 1915 lúc 50
tuổi vì giúp tù binh Anh, Bỉ và Pháp trốn qua Hòa Lan) để trổ ra đường Aviateur
Garros rồi xuống chợ Sài Gòn, nơi bán nhiều trái cây (Roland Garros là phi công
Pháp đầu tiên bay xuyên biển Méditerranée hồi 1913 và tử trận năm 1918).
Rồi cứ đi theo mãi đường d’Espagne (sau là
Lê Thánh Tôn) vì vào 1859 quân lính Tây-Ban-Nha dưới quyền chỉ huy của các Đề Đốc
Pháp đóng tại đó) để về Ngã Sáu (Phù Đổng) rồi về Colonel Boudonnet bằng ngã
Amiral Roze. Đặc biệt Sài Gòn có rất nhiều tên đường mang tên các trận đánh thời
Đệ Nhứt Thế Chiến (Boulevard de la Somme, Chemin des Dames, đường Verdun, đường
Arras, đường Champagne, đường Dixmude, đường Douaumont, Quai de la Marne….) và
tên các đề đốc Pháp vì dưới thời các vua Minh Mạng và Tự Đức, tất cả quân Pháp đến
Việt Nam bằng tàu thủy mà hai vị có tiếng nhứt là Charner và Bonard. Đô Đốc
Léopold Victor Charner người vùng Bretagne, gốc Thụy Sĩ là Tổng Tư Lệnh Lực Lượng
Hải Quân Pháp tại Đông Nam Á, ngưòi đã chiếm Nam Kỳ; còn Đề Đốc Adolphe Bonard
(chớ không phải Bonnard) là Thống Đốc đầu tiên của Nam Kỳ do hoàng đế Napoléon
III bổ nhiệm vào năm 1861 dưói thời vua Tự Đức.
Vào cuối thế kỷ XIX, kinh rộng nhứt của Sài
Gòn là “Kinh Lớn” hay “Kinh Charner” đi từ sông Sài Gòn đến Tòa Thị Sảnh, có
hai đường dọc hai bên: đường chạy xuống bờ sông là đường Rigault de Genouilly,
đường chạy lên là đường Charner. Vì mùi hôi thúi người Pháp lấp kinh lại sau
nhiều năm bàn cãi và khi “đường Kinh Lấp” thành lập thì đương nhiên lấy tên
Boulevard Charner vào năm 1861 nhưng Ba tôi vẫn gọi là đường Kinh Lấp vào những
năm 1930. Trước đó, có một kinh dẫn nước sình lầy chảy ra Kinh Tàu từ chợ Bến
Thành (người Pháp gọi là Les Halles Centrales). Theo Học Giả Vương Hồng Sển, vì gần
rạch Bến Nghé và gần Thành Gia Định, kinh đó mang tên kinh
Gallimard. Thiếu Tá công binh Léon Gallimart có dự trận đánh Kỳ Hòa và đào
kinh nầy vào năm 1861 theo lệnh của Đô Đốc Charner. Kinh nầy sau khi lấp lại, theo ý kiến của kỹ sư Thiếu Tá Bovet năm 1867 lấy tên là Đại Lộ Bonard; vì thế, đường nầy mới rộng lớn như ngày nay. Lúc lấp kinh và bến đò họ thành lập một
công trường lớn, đó là “Bùng Binh” trước chợ Bến Thành mà người Pháp gọi là
Place Eugène Cuniac, tên của một Thị Trưởng Sài Gòn, nay vẫn còn tên Công Trường
Quách Thị Trang, một nữ sinh thiệt mạng lúc biểu tình dưới thời Ngô Đình Diệm
năm 1963. Trước Tòa Thị Sảnh ở góc đường Charner và Bonard cũng có một bùng
binh nhỏ với nước phun lên có tên là Place Francis Garnier, nay là công trường Lam
Sơn để tưởng nhớ đến một sĩ quan hải quân trẻ tuổi phiêu lưu trên đất bắc và tử
thương tại Hà Nội hồi 1873. Nhiều đường khác cũng do lấp kinh mà ra như
Boulevard de La Somme (rạch Cầu Sấu, sau nầy là đại lộ Hàm Nghi), đường Tổng Đốc
Phương (hay Đỗ Hữu Phương), đường Pellerin (tên của một Giám Mục đã bênh vực
công giáo Việt Nam nhưng khuyên lầm Đề Đốc Rigault De Genouilly lúc tấn công Đà
Nẳng vào 1858). Sau nầy, đường Pellerin lấy tên là Pasteur.
Đường mà tôi thích nhứt, sang trọng nhứt
và có tiếng nhứt Sài Gòn là đường Catinat, có trước khi người Pháp đến và mang
tên một thuyền lớn đã bắn đại bác vào Đà Nẳng (chớ không phải tên của một Đề Đốc
như nhiều người tưởng, thuyền “Le Catinat” lấy tên của Thống Chế Nicolas de
Catinat, sống hồi thế kỷ XVII dưới thời Louis XIV). Nơi đó có rất nhiều tiệm
sang trọng, đường phố sạch sẽ và có nhiều “Ông Tây” ngồi uống cà phê tại khách
sạn Continental. Lúc đó chưa có tiệm Givral và nơi đó là Nhà Thuốc Tây Solirène thay thế Pharmacie Centrale. Sau nầy có thêm tiệm Brodard ở gốc đường Catinat
và Carabelli, tên của một Nghị Viên thành phố. Tôi cũng có dịp vô nhà sách
Albert Portail (nay vẫn còn dưới tên Xuân Thu từ 1955) và đi dạo trong Passage
Eden vì trong cùng có rạp hát Eden, rạp nầy và rạp Majestic ở cuối đường
Catinat là hai rạp chiếu bóng sang nhứt Sài Gòn vào thuở đó. Đi chơi vậy chớ có
tiền đâu mà mua đồ, nhiều lắm thì lấy vài tấm hình mà các ông phó nhòm chụp dạo
lúc đi trước “Nhà Hát Tây”được cất theo kiểu Opéra bên Paris. Đường Catinat là đường
tráng nhựa đầu tiên của Sài Gòn; khi mới tráng, nguời ta kêu là đường “Keo Su”
dài tới Nhà Thờ Đức Bà. Qua công trường Pigneau de Béhaine trước Bưu Điện có bức
tượng Ông “Cha Cả” hay Evêque d’Adran người đã dẫn Hoàng Tử Cảnh ra trình diện Louis XVI
tại Versailles. Sau khi qua khỏi đường Norodom thì đường Catinat lấy tên của Cố
Vấn chánh phủ và Nghị Viên Thị Xã Sài Gòn Blancsubé và tiếp theo công trường
Maréchal Joffre với tượng đài chiến si tử vong trong Đệ Nhứt Thế Chiến là đưòng
Garcerie với những hàng cây cao, sau nầy mang tên Duy Tân và công trường Quốc Tế
hay “Hồ Con Rùa”.
Ba tôi có nhiều bạn người Tàu và thừờng vô
Chợ Lớn chơi bằng xe lửa điện (tramway) mà người ta thường gọi là “xe lửa giữa”
vì chạy giữa đường Gallieni tới trạm gare de Nancy thì bạn của Ba tôi lên xe lửa
đi cùng vì ở gần thành Ô Ma (Camp des Mares, sau nầy là Bộ Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc
Gia). Tôi còn nhớ xe lửa giữa đó, với ghế cây theo kiểu của Métro xưa bên
Paris, chạy thẳng theo đường Gallieni nối liền Sài Gòn với Chợ Lớn. Ba tôi nói
lúc trứớc nơi đây toàn là đất hoang và sình lầy, sau khi lấp bưng thành đường đất
gồ ghề rồi khi Ba tôi xuống Sài Gòn học vào năm 1928 thì đường mới được tráng
nhựa và năm sau, điện giăng giữa chia con đường làm hai chiều, một bên chạy lên
một bên chạy xuống, đường rầy xe điện đặt trung tâm đại lộ, đến năm 1953 mãn hạn
giao kèo khai thác mới dẹp. Đường nầy mang tên của Thống Chế lừng danh Joseph
Gallieni chết năm 1916 nhưng phục vụ ngoài Bắc lúc còn Đại Tá Tư Lệnh Sư Đoàn 2
Bộ Binh và sách vở ghi công Ông về tổ chức hành chánh tại Đông Dương. Tên của
Ông viết với chữ “e” chớ không phải với chữ “é” vì là người gốc Ý Đại Lợi.
Xe điện chạy thẳng vô đường Rue des
Marins, qua khu Đại Thế Giới nay là khu Cát Tường và đường Jaccario (vì lúc trước
pháo hạm “Le Jaccario” đậu gần đó trên “Kinh Tàu” hay Arroyo chinois trong Chợ
Lớn, và chắc lính thủy lên bờ nhiều nên mới gọi là Rue des Marins). Ở góc đường
có vũ trường Arc-En-Ciel, sau 1975 đổi tên là nhà hàng và khách sạn Arc-En Ciel
Thiên Hồng, đến đường Tổng Đốc Phương thì quẹo qua trái mới đến Bưu Điện Chợ Lớn,
nhà ga cuối cùng là Gare Rodier tại Kinh Tàu.
Lúc còn ở đường Colonel Boudonnet, tôi có
nhiều bạn ở khu nhà thờ Huyện Sỹ và thường vô phía sau nhà thờ bắn “giàn thun”
trên mấy cây soài nên bị “Ông Từ” rượt nhiều lần! Ngoài đường Frères
Guillerault trước nhà thờ, còn có đường Duranton và đường Léon Combes mà sau nầy
đổi tên là Sương Nguyệt “Ánh” (Trung Sĩ Léon Combes là một đứa con của Sài Gòn ở
Giồng Ông Tố bên Cát Lái tử trận năm 1917 tại Craonne, thuộc tỉnh Aisne vùng
Picardie phía Bắc Paris). Tôi nhớ vì học “trường tây” nên tôi thắc mắc và tự hỏi
Bà nào mà mang họ Sương mà tôi tìm hoài trong sách vở không thấy? Sau nầy, tham
khảo mới biết đó là tên bút hiệu của Bà Nguyễn Thị Ngọc Khuê (có sách nói là
Nguyễn Xuân Khuê), con gái thứ tư của cụ Nguyễn Đình Chiểu, người đàn bà đầu
tiên làm Chủ Bút báo “Nữ Giới Chung” cho phụ nữ hồi 1918. Tuần báo nầy còn tên
là Fémina Annamite và tòa soạn ở 13 đường Taberd, trong sách kể là Sương Nguyệt
ANH (=Góa phụ Nguyệt Anh), nhưng tại sao hồi 1955 họ đổi tên đường Léon Combes
thành Sương Nguyệt ÁNH?
Về sau, gia đình tôi dọn về Chợ Lớn ở đường
Lacaze, nay là đường Nguyễn Tri Phương, nổi tiếng vì “Mì La Cai”, đường mang
tên của Đô Đốc Lucien Lacaze, Bộ Trưởng Bộ Hải Quân từ 1915 đến 1917 hồi Đệ Nhứt
Thế Chiến, nhưng chúng tôi ở khúc trên, gần góc đường Pavie (nay là Lý Thái Tổ
chớ không phải đường 3 tháng 2 vì đường nầy mới có vào lối 1957, lúc trước là
trại lính) dẫn lên trường đua Phú Thọ. Khúc dưới đường mang tên ông Auguste
Pavie (lừng danh trên đất Lào) đặc biệt rộng lớn và rất dài, có nhiều cây và
bên trong có đường dành cho xích lô và xe đạp. Nếu đi từ Ngã Bảy xuống công trường
Khải Định, từ giữa đường nầy đến đường Frédéric Drouhet sẽ thấy những biệt thự
mà “Chú Hoả” cất cho con cháu ở (tên thường gọi của Jean-Baptiste Hui Bôn Hoả, một
triệu phú người Tàu tham gia với chánh quyền, tặng thành phố Sài Gòn
Policlinique Déjean De La Bâtie, tên của một bác sĩ tận tụy lo cho người Việt
Nam, ngoài đường Bonard, sau nầy trở thành Bệnh Viện Đô-Thành). Sau 1954, các
nhà nầy dành cho Ủy Hội Kiểm Soát Quốc Tế Đình Chiến ở và khúc đường nầy gọi là
đường Hui Bôn Hoả.
Lúc đó, đường Pavie có xe nhà binh pháp chạy
nhiều vì có thành lính gần đó và tại khu đường Cây Mai, trước khi tới Phú Lâm.
Khu đất từ đường Lacaze đến đường Ducos (sau đổi là đường Triệu Đà) là đồng mả,
đường hẻm tôi ở trước một mả đá lớn, mới phá hồi tháng 11 năm 2004: đó là mả
có từ thế kỷ thứ XVIII của một người đàn bà lối 50 tuổi và quan tài thứ nhì chắc
là của một người đàn ông, chỉ có vài nữ trang chớ không có vàng bạc chôn theo
như người ta tưởng.
Từ đường Lacaze đi ra trường Chasseloup
Laubat xa hơn, tôi phải đạp xe xuống Ngã Bảy, quẹo trái qua đường Général Lizé,
rồi đạp thẳng hoài, qua khỏi đường Verdun, đường nấy lấy tên Legrand De La
Liraye. Qua khỏi trường nữ sinh Gia Long (hồi xưa gọi là Collège des Jeunes Filles
Annamites, sau là Trường Aó Tím) và đến tận trường Marie Curie mới quẹo xuống
đường Barbé. Đường Général Lizé là một đường chiến lược rất dài lúc trước gọi
là đường Hai Mươi, đi từ Ngã Bảy Chợ Lớn, nối dài đường Pierre Pasquier, đến đường
Albert Premier trên Dakao, lấy tên của Trung Tướng Lucien Lizé, xuất thân từ
trường Polytechnique Paris, Tư Lệnh Pháo Binh chiến trường Ý, tử trận hồi 1918,
có phục vụ bên Việt Nam lúc còn Đại Tá, còn Legrand De La Liraye là một trong
những linh mục thông ngôn cho Đề Đốc Rigaud De Genouilly và trở thành Thanh Tra
phụ trách về các hồ sơ giữa người Việt và chánh quyền bảo hộ. Sau 1954, đường nầy
đổi thành đường Phan Thanh Giản, một vị anh hùng sáng suốt và can đảm của Việt
Nam. Tiếc thay sau 1975, không còn đường nào trên mảnh đất Việt Nam mang tên anh
hùng dân tộc nầy cũng như không còn đường vào mang tên Lê Văn Duyệt và cũng
không còn trường học nào mang tên Petrus Ký! Cho tới nay, tôi chưa thấy một học
giả Việt Nam nào giỏi hơn Petrus Trương Vĩnh Ký, tuy vài “Sử Gia” buộc tội vị nầy
nhiều điều vô lý, họ quên rằng công lao lớn nhứt của Ông Petrus Ký là truyền bá
cho dân chúng sử dụng chữ quốc ngữ có từ Alexandre de Rhodes vào thế kỷ XVII
thay thế chữ Nôm khó học và khó viết. Tôi nghe nói ở Vĩnh Long hiện nay có một
trường học mang tên Phan Thanh Giản và vào tháng 11 năm 2008 rạp chiếu bóng
Nguyễn Văn Hảo đường Trần Hưng Đạo tại Sài Gòn đang hát tuồng “Tả Quân Lê Văn
Duyệt”, đó là điều đáng mừng vì những vị anh hùng các triều nhà Nguyễn phải được
hồi phục.
Hồi thời Pháp thuộc cũng có những tên đường
mang tên những anh hùng hay nhân tài Việt Nam như đường Paulus Của (Đốc Phủ Sứ
Hùynh Tịnh Của) trên Dakao, đường Tổng Đốc Phương (Đổ Hữu Phương) trong Chợ Lớn,
đường Phủ Kiệt (Đốc Phủ Sứ Trần Văn Kiệt là Nghị Viên thành phố trên 25 năm),
Hùynh Quan Tiên, Nguyễn Văn Đưởm trên Tân Định (cà hai là Nghị Viên Thuộc Địa
và Nghị Viên Thành Phố), Nguyễn Tấn Nghiệm (Nghị Viên), và Trương Minh Ký, một
trong những Nghị Viên đầu tiên của thành phố (ông nầy tên thật là Trương Minh
Ngôn, cháu bốn đời của Trương Minh Giảng, được ông Trương Vỉnh Ký đem về nuôi và
đổi tên, cho đi Pháp học và là một trong 7 người sáng lập viên Trường Thông
Ngôn [Ecole des Interprètes] nằm trong Tòa Án; nhờ làm thông dịch viên lúc
Traité de Patenôtre năm 1884 nên được vô quốc tịch Pháp, người mất lúc 55 tuổi
vì bệnh lao phổi).
Vị anh hùng Đại Úy phi công của quân đội
Pháp, xuất thân từ trường Võ Bị Saint-Cyr và là cựu sĩ quan Lê Dương mang tên Đỗ
Hữu Vị có tên trên một đường từ bùng binh chợ Bến Thành đến đường Charner, trước
đó đường nầy mang tên Hamelin sau nầy đổi lại là Huỳnh Thúc Kháng. Đại Úy Vị là
con thứ năm của Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương, sau khi học trung học tại trường nổi
danh Janson De Sailly tại Paris, nhập học trường Saint-Cyr vào năm 1904. Là Trung Úy bên Bắc Phi, ông gia nhập vào binh chủng Không Quân vừa thành lập; bị
thương nặng nhưng Đại Úy Vị từ chối giải ngũ và trở về đơn vị Lê Dương và tử thưong tại
mặt trận tỉnh Somme năm 1916. Hài cốt được người anh cả là Đại Tá Đỗ Hữu Chấn
đem về chôn cất trong nghĩa trang gia đình tại Chợ Lớn.
Nay Sài Gòn mất nhiều di tích ngày xưa vì
chiến tranh và vì sự thay đổi thời cuộc, tôi tiếc nhứt là hồi tháng ba năm 1983, chính quyền đương thời đã sang bằng “Lăng Cha Cả” có từ 1799 để lập một công trường mà chả thấy ai ngồi
…. Hai người ngọai quốc đã ảnh hưởng Việt Nam nhiều nhứt là Alexandre de Rhodes
va Pierre Joseph Pigneau de Béhaine, được dân Việt Nam biết dưới tên Bá Đa Lộc
hay Evèque d’Adran, người đã giúp Nguyễn Ánh lên ngôi, đi với Hoàng Tử Nguyễn
Phúc Cảnh qua triều đình vua Louis XVI để ký Hiệp Ước Versailles năm 1787. Tên
thật là Pigneau, sau đó thêm vô sau tên ấp Béhaine của làng Origny-en-Thiérache
mà gia đình có phần đất, thuộc tỉnh Aisne, trong vùng Picardie ở miền bắc nước
Pháp. Vua Gia Long cất một ngôi nhà ở số 180 đường Richaud cho Bá Đa Lộc (nay vẫn
là Tòa Tổng Giám Mục đường Nguyễn Đình Chiểu, Quận 3) và đọc điếu văn khi người
mất năm 1799. Người Sài Gòn gọi mộ ông là Lăng Cha Cả là một trong những di
tích xưa nhứt của Sài Gòn “ở Gia Định” vào thời Gia Long, sau nầy ở trước trại
Phi Long trên Tân Sơn Nhứt. Cốt của Cha Pigneau de Behaine được đem về Pháp năm
1983 và chôn trong nhà thờ Séminaire des Missions Etrangères, rue du Bac tại quận
XV Paris. Tôi có viếng thăm nhà kỷ niệm của Cha Pierre Joseph Pigneau de
Béhaine ở làng Origny-en-Thiérache, trở thành từ năm 1953 “Musée Monseigneur
Pigneau de Béhaine”. Sau khi xem xong, tâm hồn tôi thả về dĩ vãng của một Việt
Nam oai hùng tranh đấu cả ngàn năm để giữ biên cương …
Tôi cũng có dịp thăm viếng nhiều di tích của
xứ Pháp từ thời Trung Cổ, nhiều lâu đài của Âu Châu và Nga Sô có từ thế kỷ XV,
luôn cả những ngôi mộ bên Ai Cập có trước nền văn hóa của Hy Lạp và tiếc rằng xứ
tôi không biết giữ gìn những kho tàng quý giá của lịch sử.
Những tên đường
Sài Gòn trong bài theo thời cuộc
|
Thời pháp thuộc
|
Sau 1954
|
Sau 1975
|
Albert Premier
|
Đinh Tiên Hoàng
|
Đinh Tiên Hoàng
|
Amiral Roze
|
Trương Công Định
|
Trương Định
|
Armand Rousseau, Jean-Jacques Rousseau
|
Trần Hoàng Quân
|
Nguyễn Chí Thanh
|
Arras
|
Cống Qùynh
|
Cống Qùynh
|
Aviateur Garros, Rolland Garros
|
Thủ Khoa Huân
|
Thủ Khoa Huân
|
Barbé
|
Lê Qúy Đôn
|
Lê Qúy Đôn
|
Blancsubé, rue Catinat prolongée
|
Duy Tân
|
Phạm Ngọc Thạch
|
Bonard
|
Lê Lợi
|
Lê Lợi
|
Carabelli
|
Nguyễn Thiệp
|
Nguyễn Thiệp
|
Catinat
|
Tư Do
|
Đồng Khởi
|
Champagne
|
Yên Đỗ
|
Lý Chính Thắng
|
Charner
|
Nguyễn Huệ
|
Nguyễn Huệ
|
Chasseloup Laubat
|
Hồng Thập Tự
|
Nguyễn Thi Minh Khai
|
Chemin des Dames
|
Nguyễn Phi
|
Lê Anh Xuân
|
Colonel Boudonnet
|
Lê Lai
|
Lê Lai
|
Dixmude
|
Đề Thám
|
Đề Thám
|
Đỗ Hữu Vị, Hamelin
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Huỳnh Thúc Kháng
|
Douaumont
|
Cô Giang
|
Cô Giang
|
Ducos
|
Triệu Đà
|
Ngô Quyền
|
Duranton
|
Bùi Thị Xuân
|
Bùi Thị Xuân
|
Espagne
|
Lê Thánh Tôn
|
Lê Thánh Tôn
|
Eyriaud Des Vergnes
|
Trương Minh Giảng
|
Trần Quốc Thảo
|
Frédéric Drouhet
|
Hùng Vương
|
Hùng Vương
|
Frère Louis
|
Võ Tánh
|
Nguyễn Trãi
|
Frères Guillerault
|
Bùi Chu
|
Tôn Thất Tùng
|
Gallieni, rue des Marins
|
Trần Hưng Đạo, Đồng Khánh
|
Trần Hưng Đạo 1, Trần Hưng Đạo 2
|
Garcerie
|
Duy Tân
|
Phạm Ngọc Thạch
|
Général Lizé
|
Phan Thanh Giản
|
Điện Biên Phủ
|
Georges Guynemer
|
Võ Di Nguy
|
Hồ Tùng Mậu
|
Huỳnh Quan Tiên
|
Hồ Hảo Hớn
|
Hồ Hảo Hớn
|
Jaccario
|
Tản Đà
|
Tản Đà
|
Jauréguiberry
|
Ngô Thời Nhiệm
|
Ngô Thời Nhiệm
|
La Grandière
|
Gia Long
|
Lý Tự Trọng
|
Lacaze
|
Nguyễn Tri Phương
|
Nguyễn Tri Phương
|
Lacote
|
Phạm Hồng Thái
|
Phạm Hồng Thái
|
Larégnère
|
Đoàn Thị Điểm
|
Trương Định
|
Legrand De La Liraye
|
Phan Thanh Giản
|
Điện Biên Phủ
|
Léon Combes
|
Sương Nguyệt Ánh
|
Sương Nguyệt Anh
|
Mac Mahon, De Lattre De Tassigny, Gal De Gaulle
|
Công Lý
|
Nam Kỳ khởi nghĩa
|
Marins
|
Đồng Khánh
|
Trần Hưng Đạo 2
|
Miss Cavell
|
Huyền Trân Công Chúa
|
Huyền Trân Công Chúa
|
Nancy
|
Cộng Hòa
|
Nguyễn Văn Cừ
|
Nguyễn Tấn Nghiệm, rue de Cầu Kho
|
Phát Diệm
|
Trần Đình Xu
|
Nguyễn Văn Đưởm
|
Nguyễn Văn Đưởm
|
Nguyễn Văn Nghĩa
|
Ohier
|
Tôn Thất Thiệp
|
Tôn Thất Thiệp
|
Paul Blanchy
|
Hai Bà Trưng
|
Hai Bà Trưng
|
Pavie, Hui Bôn Hoả
|
Lý Thái Tổ
|
Lý Thái Tổ
|
Pellerin
|
Pasteur
|
Pasteur
|
Phan Thanh Giản
|
Ngô Tùng Châu
|
Lê Thị Riêng
|
Pierre Flandin
|
Bà Huyện Thanh Quan
|
Bà Huyện Thanh Quan
|
Pierre Pasquier
|
Minh Mạng
|
Ngô Gia Tự
|
Place Eugène Cuniac
|
C.Trường Quách Thị Trang
|
C.Trường Quách Thị Trang
|
Place Maréchal Joffre
|
Công Trường Quốc Tế
|
Hồ con Rùa
|
Richaud
|
Phan Đình Phùng
|
Nguyễn Đình Chiểu
|
Somme
|
Hàm Nghi
|
Hàm Nghi
|
Testard
|
Trần Qúy Cáp
|
Võ Văn Tần
|
Thévenet
|
Tú Xương
|
Tú Xương
|
Tổng Đốc Phương
|
Tổng Đốc Phương
|
Châu Văn Liêm
|
Trương Minh Ký, Lacant
|
Trương Minh Ký
|
Nguyễn Thị Diệu
|
Verdun, Gal Chanson, Nguyễn Văn Thinh
|
Lê Văn Duyệt
|
Cách mạng tháng 8
|
Ypres
|
Nguyễn Văn Tráng
|
Nguyễn Văn Tráng
|
11è R.I.C.
|
Nguyễn Hoàng
|
Trần Phú
|