O LỰU
Truyện ngắn của Hương Thủy
(Trích trong trang web "QUANG TRI BẮC CALI")
O Lựu người làng Bồ Bản, quận Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị. Nhà
nghèo lại đông con, mẹ O quyết định cho O lên tỉnh “đi ở” kiếm chút vốn và cũng
để bớt một miệng ăn. Năm ấy, O vừa mười sáu tuổi. Không giống những người làm
ruộng vất vả khác, O Lựu có nước da trắng xanh, đuôi mắt dài, tóc chấm vai được
cặp lại bằng một cái kẹp ba lá. Vào nhà được mươi lăm phút, O đã tất tả tìm cái
chổi que quét dọn bếp núc.
Có O Lựu, tôi khỏi phải ăn những bát cơm nửa sống nửa chín do
chị Hai nấu, anh tôi không còn nhăn mặt trước dĩa chả trứng khét lẹt và ba tôi
đã có ấm nước sôi pha trà buổi sáng. O dạy chị tôi “xuốc cươi thì phải khom
người xuống”, dặn tôi “đừng leo cây ổi mà bổ lọi tay.”
Mất mẹ lúc còn quá nhỏ, ba luôn nghiêm nghị, ít khi biểu hiện
tình cảm ra bên ngoài, tôi chỉ còn O Lựu để nhỏng nhẽo: “O Lựu rửa chân cho
em…O Lựu cõng em đi chợ…O Lựu con mèo cào em”. Tai quái hơn, tôi còn bắt O làm bò
cho mình cởi và khi muốn “bò” ngừng lại, tôi đấm thình thịch vào lưng. O lẵng
lặng chiều theo ý tôi, không một lời phàn nàn.
Đêm đêm khi gãi lưng cho tôi ngủ, O hay kể chuyện làng mình.
Chuyện đền thờ Thần Hoàng có cây đa cao vút với con tinh áo trắng chuyên dọa người
đi qua, chuyện bà lão hiền lành nhặt được cục vàng khi mò cua ngoài ruộng…
Thỉnh thoảng, O lại đọc những câu ca dao mang âm điệu buồn bã “Gió đưa cây cải
về trời. Rau răm ở lại chịu lời đắng cay” hoặc “Chèo đò bẻ bắp bên sông. Bắp
chưa có trái bẻ bông chèo về”…Tất cả ru tôi vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị.
An phận thủ thường như những người giúp việc khác nhưng O Lựu
lại có một sở thích kỳ lạ: thích chụp ảnh. Hè năm đó, cậu tôi ở Huế ra chơi đem
theo cái máy ảnh Canon và chụp cho hầu hết các thành viên trong gia đình nhằm
mục đích trau dồi tay nghề tài tử. Thấy sự hiền lành của O Lựu, cậu có nhã ý
chụp cho O một tấm hình dưới gốc cây ổi. Ảnh sang ra, O trang trọng đón nhận
bằng cả hai tay.
O mua cho tôi một đồng kẹo Gia Địa và năn nỉ tôi viết cho hai
chữ “Kỷ niệm” ngòng ngoèo đằng sau ảnh. Những ngày tiếp , O thể hiện sự biết ơn
của mình một cách thầm lặng: giặt sạch bộ đồ nhà binh dày cộp, cắm cúi đánh
bóng đôi giày “trấn thủ lưu đồn” của cậu. O xin tờ giấy bóng kính, bao tấm ảnh
và cẩn thận xếp nó vào đáy rương. Những buổi trưa rổi rãnh, ngồi sau hiên nhà bếp,
O lôi ra ngắm nghía say sưa.
Dưới đôi mắt một đứa con nít như tôi, tấm ảnh chẳng có chi xuất
sắc nếu không nói là xấu bởi vì O Lựu trong hình bị xén mất một chân. O nói
dưới làng chỉ có nhà giàu mới dám lên tỉnh chụp bóng để sau này có ảnh mà thờ.
O ao ước phải chi có nhiều tiền sẽ ra chụp một cái hình màu ở tiệm LIDO ngoài
chợ tỉnh.
Mỗi năm, O Lựu được về thăm nhà một lần vào ngày hai bảy tháng
Chạp. Khi đó, O mặc chiếc áo dài xanh của chị Cả tôi cho, đi đôi guốc mộc, đầu
đội nón lá. Tiền công xá ba tôi đưa, O gói trong chiếc khăn mùi xoa và lận vào
lưng quần. O xin anh tôi mấy cuốn tạp chí Thế giới Tự do về cho em dán trên
vách nhà. Vắng O, tôi bần thần cả mấy ngày Tết. Năm nào, O lên muộn, ngồi trong
lớp tôi sốt ruột sốt gan. Và thật sung sướng khi đi học về, đã thấy O Lựu trong
nhà bếp. O đem lên làm quà những củ khoai từ đầy bột, mớ khoai lang tươm mật và
những trái khế vàng ươm. Trước vẻ mặt phụng phịu của tôi, O hứa lần sau sẽ lên
nhanh, sẽ xin cho tôi về Bồ Bản, một làng quê nghèo có lũy tre xanh, có động
cát trắng với bao nhiêu là sim, móc và những bông hoa chạc chìu thơm ngát.
Một hôm, tôi nằm ở nhà trên, say sưa dán mắt vào cuốn “Lửa cháy
thành Phiên Ngung” thì O Lựu đi chợ về. Đã hơi trưa, O gọi vọng lên nhờ tôi lấy
giúp cái kéo cắt râu tôm kịp nấu canh cho ba tôi về ăn. Mê mải với chàng trai
Hoàng Anh Kiệt hào hùng, O giục giã vài ba lượt, tôi mới nhỏm dậy làu bàu rồi
vơ cây kéo chạy vội xuống nhà bếp ném đại về phía O đang lúi húi. Cây kéo không
rơi xuống đất mà lại phi thẳng một đường vào trán của O, dòng máu đỏ tuôn ra. O
cúi xuống, gục mặt vào đầu gối để cầm máu. Tôi hoảng hồn đứng lặng. Anh tôi vội
vã lấy bông và thuốc đỏ rịt vết thương. Trưa hôm ấy, khi thấy trán O bị băng,
ba tôi hỏi nguyên do, O nói trớ là bị va đầu vào cột nhà. O đã giúp tôi thoát
khỏi trận đòn chắc chắn sẽ xảy ra. Sau đó, trên trán O có một vết sẹo khoảng ba
phân vắt ngang.
O Lựu ở với chúng tôi được 4 năm. Khi tôi vừa lên lớp đệ lục thì
mạ O lên xin cho O về làng để “lấy dôông”. Ở nhà quê, hai mươi mà chưa có
“dôông” là coi như ế. Tôi nằng nặc không cho O về. Mặc kệ cây roi mây và lời
dậm dọa của ba, mặc kệ lời dụ dỗ và những trái khế ngọt của mạ O, tôi ôm O chặt
cứng. Đêm ấy, trước khi đi ngủ tôi lấy cái khăn buộc chặt tay tôi vào tay O
nhưng sáng mai thức dậy, O đã đi từ lúc nào. O để lại cho tôi năm đồng bạc mới
trên gối. Tôi khóc tỉ tê suốt cả buổi và nhất định sẽ nhờ ai đó chở về làng tìm
O. Chị Hai cứ chế diễu tôi vô duyên, không để O Lựu đi lấy chồng.
Nhưng đứa bé 12 tuổi không dễ dàng thực hiện được dự tính. Làng
Bồ Bản quá xa so với đôi chân bé nhỏ của tôi. Chiều chiều, tôi ngẩn ngơ ra sân
ngóng đợi. Có lần, chị tôi đi sinh hoạt Hội Hồng Thập Tự Thị Xã đem về tập san
Đan Tay, trong đó có một bài thơ của thầy Lê Văn Mãn dạy Sử Địa nói về Bồ Bản.
Bài thơ có lẽ không có chi xuất sắc nhưng tôi thuộc nằm lòng vì nó nhắc đến
làng O Lựu:
Đường về Bồ Bản không xa
Cách một trái núi với ba quãng đồng
Chưa đi những ngóng cùng trông
Khi về chỉ thấy đồng không tre già
*
Đường về Bồ Bản xa không
Muốn về nơi ấy mà lòng phân vân
Quê nhà vắng vẻ. Trong sân
Hàng cây không lá muôn phần nhớ thương
Phải chi có O Lựu ở đây, nghe tôi đọc chắc O thích lắm.
Rồi thời gian qua… Trường lớp, bạn bè và những cuộc vui cuốn hút
tôi. Tôi đã lớn, đã biết đi xe đạp rồi Honda nhưng làng O Lựu trở thành vùng
xôi đậu, mất an ninh. Đôi lần nhớ về O Lựu, tôi ngậm ngùi, chắc O đã có một gia
đình êm ấm.
Năm 1972 mùa hè chinh chiến, gia đình tôi cũng bỏ Quảng Trị mà
đi. Và từ đó, tôi không còn dịp quay lại tỉnh lỵ nhỏ bé này.
*
Tốt nghiệp Đại Học Sư Phạm nhưng với cái lý lịch không mấy “sạch
sẽ”: Ba “ngụy quyền”, anh trai, anh rể đi “cải tạo”, với cái nhìn không mấy
thiện cảm của loại Sinh viên “Cách mạng 30” về một cô gái trước 75 hay mặc váy
lên giảng đường, đi “lao động Xã hội chủ nghĩa” vẫn áo Pull quần Jean “tàn dư
Mỹ Ngụy”, tôi không được bổ nhiệm. Buồn tình tôi bỏ về Đà Lạt, thành phố cao
nguyên. Những ngày nằm dài ủ ê nghe thông reo. Chị Cả tôi từ một mệnh phụ đã
bước xuống cuộc đời. Đồ đạc trong nhà bán dần hết. Một nách ba con với gánh
hàng trên vai, chị tôi vào bán trong Hồ Than Thở. Đây là một thắng cảnh của Đà
Lạt. Cạnh đó là Trường Võ Bị Quốc Gia nay đã đổi tên thành Học Viện Lục Quân.
Hàng ngày tôi nhìn sang mà lòng ngậm ngùi. Anh rể và anh trai tôi đều xuất thân
từ ngôi trường quân sự danh giá này và bây giờ cả hai đều bị lưu đày ở nơi thâm
sơn cùng cốc. Cả hai anh đều bị xếp vào loại “ác ôn” khi chọn lựa binh chủng
Biệt Động quân với chiếc mũ nâu. Cháu tôi khi chơi đánh nhau vẫn quen mồm
“Ranger ranger, kill…kill ”…Khách hàng phần đông là những bộ đội “cách mạng”
các miền; thỉnh thoảng có những chuyến xe Saigon của các du khách lãng mạn đi
tìm dấu tích của Đồi thông Hai mộ một thuở . Sang hơn hết là xe của những cán
bộ cao cấp, những đoàn chuyên gia nước ngoài đi ngoạn cảnh mà họ dùng bằng hai
từ tối nghĩa “Thăm quan”. Hàng họ ngoài thuốc lá, bánh kẹo thông thường, chị
tôi bày thêm tranh khắc bút lửa, những con cù lần bằng gốc cây… Mặt hàng này du
khách hay mua làm kỷ niệm. Tôi thường giúp chị trong khâu bán hàng.
Buổi trưa, úp mặt vào cuốn “Người xa lạ” của A.Camus, tôi lơ mơ
buồn bã. Đang miên man nhớ câu thơ của Vũ Hoàng Chương “Đời tàn trong ngõ hẹp”,
tôi giật mình với tiếng reo hớn hở của người bán hàng bên cạnh: “A, khách Tây,
khách Tây”. Hầu như các quán hàng đều tỉnh ngủ. Mối “sộp” đây rồi!
Tính sĩ diện vẫn còn khiến tôi không thể chạy theo chèo kéo
khách như những người khác.Thôi thì ngồi yên ngâm nga thơ Nguyễn Công Trứ: “Lúc
vị ngộ hối tàng nơi bồng tất. Hiêu hiêu nhiên điếu Vị canh Sằn”. Các cháu ơi!
Dì chịu thôi. Chiều nay chúng ta ăn khoai tây vừa mót được dưới Trại Hầm hôm
qua chấm với muối vậy.
Gạt những người xúm quanh, một ông Tây bước về gian hàng bé nhỏ
của tôi, chăm chú nhìn những bức tranh rồi cúi xuống chọn lựa…
Lạy Chúa, lạy Phật phù hộ! Chị tôi đang đi thăm nuôi anh rể ở trại
cải tạo Sông Mao. Gạo trong nhà đã hết. Trống ngực tôi đập nhanh. Bất ngờ, ông
Tây hướng về phía nhóm du khách và reo vang như vừa phát hiện một điều gì kỳ
thú:
- Honey, come here. I saw your village in the picture…
Người phụ nữ tóc vàng, váy đỏ, dáng dấp Á Đông bước tới. Bà ta
có vẻ bồi hồi khi ngắm bức tranh có mái tranh với đụn rơm, cánh đồng, con trâu
đang gặm cỏ. Bà ngước lên nhìn tôi chăm chú rồi thảng thốt kêu lên…bằng tiếng
Việt:
- Bé Ti, bé Ti phải không? O Lựu nì!
Tôi há hốc miệng. O Lựu, người giúp việc năm xưa? Như sợ tôi
không tin, người phụ nữ vén tóc trán:
- Vết sẹo nì. O đây, O đây…
Chúng tôi ôm chầm lấy nhau. Sự nhớ thương pha chút tủi hổ làm
tôi nghẹn ngào. Tôi gục đầu vào mái tóc O như muốn tìm lại mùi hương thời thơ
ấu…
Phút xúc động lắng xuống, O giới thiệu: “Đây là Tim John, chồng
O.”
Để mặc ông chồng đứng cười hiền ngơ ngác, O kéo tôi ngồi xuống
kể chuyện tháng ngày qua:
Từ giã nhà tôi, O Lựu về làng lấy chồng theo sự sắp xếp của cha
mẹ. Chồng O là một anh nông dân hiền lành và chăm chỉ làm ăn. Được hai năm,
chưa kịp có con, anh đã chết do một phát đạn ngu ngơ không biết của phe nào khi
đang cày bừa trên mảnh ruộng nhà. Rồi làng Bồ Bản chìm ngập trong lửa đạn. Ban
ngày lính cộng hòa hành quân bố ráp, ban đêm du kích bò ra hoạt động, dân chúng
toàn phải chui hầm.
Trong một trận pháo kích của Cộng quân, nhà O bị sập. Gia đình
chết hết, O bị thương nặng, được máy bay trực thăng của tổ chức Hồng Thập Tự
đưa ra Hạm đội cứu chữa. Không còn gia đình, làng mạc tan hoang sau trận chiến
mùa hè 1972, O Lựu không còn nơi để trở về. Số phận đưa đẩy, Tim John là người
phụ tá bác sỹ điều trị cho O đưa O qua Mỹ và họ trở thành vợ chồng. Năm nay, Tim
đại diện cho một tổ chức nhân đạo sang giúp đỡ trẻ em khuyết tật Việt Nam do
chiến tranh, O theo chồng về thăm quê hương và tình cờ gặp tôi.
Vẫn là sự thương yêu chân tình đối với “cô chủ nhỏ” của mười năm
trước, O Lựu vuốt ve mái tóc tôi, xuýt xoa khi nắn bóp cơ thể gầy guộc thiếu ăn
của “bé Ti”, chảy nước mắt khi nghe anh tôi đi “cải tạo” tận miền núi Hoàng
Liên Sơn rừng sâu nước độc và thở dài khi biết chị tôi đang lặn lội đi thăm
chồng tù tội. Ôi! Vẫn là một O Lựu chơn chất, hiền lành của ngôi làng Bồ Bản xa
xưa.
Lúc chia tay, O tế nhị dúi vào túi áo tôi một cuộn tiền rồi tất
tả lên xe. Vẫy tay chào theo, tôi không biết là mình đang mơ hay tỉnh. Lần
đầu tiên, tôi nhìn thấy những tờ 100 đô la Mỹ.
Nhờ số tiền của O Lựu, chị tôi từ giã nghề buôn gánh bán bưng.
Chị sang một sạp hàng tạp hóa ở chợ Đa lạt, nuôi 3 đứa con ăn học, chờ
chồng trở về từ trại giam.
Sáu năm sau, anh chị
cũng ra nước ngoài theo diện HO. Trên đất khách quê người những ngày đầu
tiên, anh chị được vợ chồng O Lựu tận tình giúp đỡ. Tiếc
rằng do vết thương chiến tranh, O Lựu không thể có con. Vợ chồng O nhận
đứa con trai của anh chị tôi làm con đỡ đầu.
Năm ngoái, tôi lặng người khi nghe chị tôi gọi điện thoại báo tin O Lựu đã qua đời sau một cơn đột quỵ. Ôi ! O Lựu, bóng mát trên thiên đường ký ức của tôi, ân nhân của gia đình tôi trong cơn khốn cùng! Tôi khóc O như khóc một người thân yêu nhất.
• Xuốc cươi: Quét sân
• Bổ : Té
• Lọi tay: Gãy tay
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét