Chủ Nhật, 31 tháng 12, 2017

NGĂN NGỪA BỆNH ALZHEIMER

NGĂN NGỪA BỆNH ALZHEIMER
Biểu Nguyễn & Trọng Nguyễn giới thiệu

Khám phá mới nhất bây giờ để ngăn ngừa bệnh Alzheimer là vitamine D3, mỗi ngày uống 2000IU, uống liên tục tới lúc chết. Khám phá này đã được phổ biến rộng rãi trên thế giới. Dĩ nhiên là cách ăn uống của Mehmet Oz và BS Michael Roizen rất tốt nhưng vitamine D3 vẫn là chính. Cơ thể thiếu Vitamin D sẽ gây những bệnh như sau:
                               

Phòng bệnh Alzheimer ngay từ bây giờ
Phúc trình mới nhất của chính phủ cho biết rằng chất bổ sung (supplements) hay thuốc chữa bệnh không giúp gì được cả trong việc ngăn ngừa bệnh Alzheimer tức là bệnh mất dần trí nhớ, bệnh lú lẫn. Đây là căn bệnh nhiều người già bị vướng phải như trường hợp của cựu Tổng thống Ronald Reagan.
Nhưng phúc trình đó lại đưa ra những bằng chứng là nếu chúng ta chịu khó tập thể dục, tỏ ra năng động, ăn uống lành mạnh, giữ cho áp huyết thấp để máu có thể đưa lên não dễ dàng, chúng ta sẽ ngăn ngừa được bệnh mất trí nhớ.
Bản phúc trình không gỉải thích vì sao nhưng chúng tôi sẽ phân tích cho độc giả biết rõ: trí nhớ của chúng ta trở nên yếu kém, sự suy nghĩ trở nên loạng quạng (fuzzy) khi lớn tuổi là do ảnh hưởng gộp của nhiều yếu tố khác nhau,
Yếu tố chính là óc của chúng ta không nhận đủ máu đưa lên đầu vì mạch máu bị tắc nghẽn hay bị hở gọi chung là vascular dementia.
Trong cả hai trường hợp, óc của chúng ta không nhận đủ dưỡng khí (oxygen) và đường (blood sugar).
Chúng ta có thể ngăn ngừa những rắc rối này hay sửa chữa những trục trặc đó bằng cách giữ cho mạch máu dẫn máu lưu thông lên não bộ đuợc thông tuông dễ dàng. Điều này có nghĩa là chúng ta cần làm những gì để giúp máu bơm lên đầu dễ dàng. Phòng bệnh là biện pháp chúng ta nên làm sớm:

1. Hoạt động thể lực giúp máu chạy đều lên óc:

Các nghiên cứu khoa học cho thấy các cụ già trên 65 tuổi chịu khó tập thể dục ít nhất ba lần một tuần thì tránh được một phần ba rủi ro vướng bệnh Alzheimer. Có thể làm một trong những hoạt động sau đây tùy theo sở thích của mình: đi bộ (mỗi ngày đi bộ, ít nhất 10,000 bước đi), làm vườn hay khiêu vũ.
2. Ăn nhiều rau và hoa quả:
Rau tươi, trái cây tươi là thức ăn chính cho bộ óc. Trong hoa quả và rau có chứa chất “flovonoids” giúp tăng cường hệ thống ngăn ngừa độc tố. Trong một cuộc nghiên cứu, nhóm người thích ăn rau quả tươi, uống trà, cà phê hay rượu nho, có nhiều chất “flovonoids” thường có não bộ hoạt động tốt hơn người không dùng rau quả tươi và sự suy sụp của não bộ tránh được tới 10 năm. Ngoài ra, nhiều cuộc nghiên cứu khác cho thấy mỗi tuần uống vài lần nước ép từ rau quả, sẽ giúp ngừa được 76% bệnh lú lẫn.
3. Ăn theo thực đơn  Điạ Trung Hải gồm có rau tươi, hạt đậu (grain), dầu olive, cá và các loại hạt (nuts) sẽ giúp áp huyết giữ ở mức tốt.
Ăn theo  thực đơn  Điạ Trung Hải sẽ giúp tránh được bệnh Alzheimer khoảng 48% . Người hút thuốc lá có nhiều rủi ro bị Alzheimer hơn người không hút thuốc đến 80%.
4. Đừng uống rượu mạnh quá độ.
Uống một chút rượu có lợi cho việc gìn giữ tế bào chất xám nhưng uống nhiều quá lại gây nguy hại cho đầu óc, 25% người bị bệnh mất trí nhớ dính líu đến nghiện rượu. Đàn bà chỉ nên uống rượu mỗi ngày một ly. Đàn ông đuợc uống tới hai ly.
5. Duy trì huyết áp ổn định ở mức thấp:
Huyết áp cao có thể làm cho mạch máu trên đầu bị hở hay đứt. Chính vì vậy, các chuyên gia y tế nói rằng huyết áp cao là nguyên nhân của 50% trường hợp gây ra lú lẫn. Chúng ta hãy ráng duy trì huyết áp ở mức thấp : lý tưởng là 115/75 bằng cách ăn uống lành mạnh, tập thể dục hàng ngày, đừng để lên cân, béo mập. Chúng ta nên theo dõi mức đường trong máu. Bệnh tiểu đường là dấu hiệu báo trước có thể bị hở mạch máu đầu, chảy máu trong não, gây ra bệnh lú lẫn.

Thứ Tư, 27 tháng 12, 2017

TÌNH NGƯỜI NGOẠI ĐẠO

TÌNH NGƯỜI NGOẠI ĐẠO
Sáng tác: Phương Linh Nguyễn văn Đông
Tiếng hát: Ca sĩ Phương Anh
Youtube: Trần Năng Phùng

 

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2017

MERRY CHRISTMAS AND HAPPY NEW YEAR

MERRY CHRISTMAS AND HAPPY NEW YEAR 2018
Long Kangaroo

 

MỪNG GIÁNG SINH

MỪNG GIÁNG SINH

Hoa đèn Hang Đá rực màu xinh
Nhơn loại thiết bày lễ Giáng Sinh
Cầu Chúa Ngôi Hai ban phước lộc
Mong Ngài Thiên Sứ dẹp âm binh
“Hạt nhân” tận thế không thành qu
“Hóa học” diệt vong hủy tiến trình
Nhạc Thánh yêu thương gieo bốn cõi
An vui hạnh phúc khắp hành tinh.

Phùng Trần

Trời vào đông, cơn gió chiều lành lạnh
Nắng hanh v
àng từng sợi giữa trời mơ
Chu
ông báo hiệu mùa Noel rạng rỡ
Triệu triệu con tim mừng vui hớn hở
Ch
ào đón Cha lành về với con yêu

Nh
ững ánh đèn màu, tím, vàng, xanh, đ
Rải ng
àn phương muôn ánh sáng dịu hiền
Lấp l
ánh sao đêm, trời mơ sáng t
Soi vạn nẻo đường khắp cả thế gian

Thông Noel, tuyết đầu cành trắng xóa
Nh
ững bầy nai ngơ ngác ngẩn cao đầu
Ðấng Hài Ðồng hiền hòa bên máng c
Trải tình thương bất tận đến ngàn nơi

Chúa dang tay c
ứu bao người lầm lỡ
Ðang khổ đau chìm đắm giữa trần ai
Chu
ông ngân vang, xé màn đen u tối
Ðem Thanh Bình, Bác Aí, đuốc ngời soi

Tri
ệu ánh sáng dẫn đường về với Chúa
Bao h
ận thù, xóa hết sạch từ đây .
Cho Nhân lo
ại, muôn loài cùng hoa c
Một niềm vui ấm
áp - một trời thương .

Ánh sáng Noel - r
ạng rỡ vạn nẻo đường
Ðấng Cha lành, niềm vui chung nhân loại.
Bao tội lỗi thế gian đầy oan tr
ái ,
Ch
ỉ mình Cha gánh chịu... để con ngoan

Cao qúi thay.. Ôi ! Cao qúi vô vàn,
Ð
ấng Cứu Thế, lòng Nhân Từ, Bác Ái
Chúa c
ủa muôn loài,  tình yêu thương vạn cõi
V
ững niềm tin - Cha sống mãi đời đời …

Ơn phư
ớc lành trải rộng khắp ngàn nơi
Ðêm Noel.. Ðêm Noel ... Ng
ời sáng ...

Nguyên Hà

Chúa ra đời hai ngàn năm về trước
Trong hang đá lạnh lẽo giữa trời đông.
Khắp nơi nơi được tin Chúa Hài Đồng
Theo mệnh Trời ban phước lành nhân loại.
Với tình yêu ấy, Chúa dang tay cứu rỗi
Bao con người tội lỗi dưới trần gian.
Ơn của Chúa đáng tôn kính muôn vàn!
Quỳ trước Chúa thầm một lời ước nguyện
Cho muôn loài có tình thương trọn vẹn
Không hận thù, không gây cảnh chiến chinh
Để muôn dân được vui hưởng thái bình
Trong không khí tự do và no ấm!
Đêm Giáng sinh cất lời ca nhạc Thánh
Đầy mừng vui với cả một niềm tin!

Phan Lục





Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

HAPPY HOLIDAYS

HAPPY HOLIDAYS


BLOGGER THÀNH PH GIÓ
Kính chúc quý độc giả và quý thân hữu cùng gia quyến
một mùa Giáng sinh vui vẻ cùng một năm mới
an khang và hạnh phúc!

Thứ Ba, 19 tháng 12, 2017

CẦN PHÂN BIỆT X-RAYS, CT SCAN, MRI, PET SCAN , ULTRA SOUND

CẦN PHÂN BIỆT X-RAYS, CT SCAN, MRI, PET SCAN , ULTRA SOUND 
Các phương pháp chụp hình để chẩn bệnh 
BS. Hồ Ngọc Minh

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà:www.bacsihongocminh.com

1. X-rays (X-quang ) là gì?
Để hiểu X-quang là gì, trước hết hãy tìm hiểu khái niệm về “sóng điện từ trường” (electromagnetic wave, electromagnetic radiation).
Chung quanh chúng ta luôn luôn hiện hữu một không gian năng lượng dưới dạng điện từ trường, trong đó ánh sánh mặt trời, hay ánh sáng mà chúng ta thấy được cũng chỉ là một dạng sóng điện từ trường. Có nhiều loại sóng từ trường, từ yếu đến mạnh theo thứ tự, gồm có: sóng radio, sóng microwaves, sóng hồng ngoại (infared, IR, dùng trong các remote controls), ánh sáng thường, tia cực tím còn gọi là tia tử ngoại (ultraviolet light, UV), tia X-quang, và cuối cùng là gamma-rays. Như thế chỉ có 3 loại sóng mạnh hơn là ánh sáng thường. Sóng càng mạnh, độ “xuyên thủng” qua tế bào càng nhiều. Ba tia X-rays, UV, và Gamma đều được sử dụng trong y học để truy tầm hay chữa bệnh. Trong khi đó, ánh sáng thường trở xuống, khi đụng vật cản đa phần sẽ bị phản chiếu và ít ảnh hưởng đến cấu trúc hay làm hư hại vật thể bên trong. Mở ngoặc một tí cho vui, tôi nói “đa phần” ở đây vì sóng có thể tồn tại dưới dạng sóng (wave), năng lượng (energy), và vật chất (matter), vì thế năng lượng có khi một phần bị hấp thụ mà không phản chiếu ra. Có thể hiểu, cơ thể chúng ta, có lúc hiện hữu chỉ là một khối lượng sóng và năng lượng trong không gian điện từ trường!.
X-rays được khám phá năm 1895 bởi một giáo sư vật lý người Đức, Wilhelm Conrad Röentgen. Một công dụng thường dùng của X-rays là để “chụp hình quang tuyến”, tuy nhiên X-rays còn dùng để trị ung thư và để dò tìm các thiên thể trong ngành thiên văn (cosmos). X-rays còn được dùng để dò tìm hàng lậu, súng ống ...
2. CT scan là gì?
CT scan còn gọi là CAT scan, viết tắt của hai chữ “computed tomography”, được phát minh năm 1967 bởi một kỹ sư người Anh tên là Godfrey Hounsfield. CT cho ta thấy hình chụp của cơ thể theo dạng mặt cắt, một khối 3 chiều, thể hiện trên những mặt phẳng hai chiều. Mỗi một hình ảnh là tập hợp bởi nhiều tia X-rays, bắn đi từ nhiều hướng khác nhau vòng quanh cơ thể. Khi chụp hình bằng X-ray thường, tia sáng bắn đi một chiều nên hình ảnh chồng lên nhau. Thí dụ chụp hình phổi, ta thấy cả tim phổi xương sườn chồng lên nhau làm cho khó thấy rõ chỗ bị bệnh. CT scan dùng computer để tổng hợp hình X-rays từ nhiều góc độ khác nhau, để có thể để tạo ra hình chụp rõ ràng, giống như cơ thể được cắt ngang từng lát mỏng như những lát chanh trong dĩa bò tái chanh!
3. MRI là gì?
Một hạn chế của X-rays là nó xuyên qua cơ thể và mang theo phóng xạ (radiation) vì thế ngày nay MRI có nhiều lợi thế hơn. MRI viết tắt của ba chữ, Magnetic Resonance Imaging. MRI được sáng chế bởi Paul C. Lauterbur vào năm 1971, nhưng kỹ thuật không được hoàn thiện mãi cho đến những năm 1990’s. Nguyên tắc của MRI là tạo ra một từ trường chung quanh phần cơ thể muốn chụp hình. Vì trong cơ thể chúng ta hầu hết là... nước, mà phân tử nước có chứa nguyên tử Hygrogen mang điện cực dương, còn gọi là proton. Khi bị kích động bởi từ trường, những hạt proton như bị “sắp hàng lại” và rung lên, phát ra sóng radio. Máy computer sẽ ghi nhận sóng radio nầy thành hình ảnh.
Như vậy, chung chung, MRI an toàn, và kỹ thuật càng ngày càng tiến bộ, độ chính xác nhiều hơn là CT.
4. PET scan là gì?
PET scan là chữ viết tắt của Positron Emission Tomography. PET scan là một thử nghiệm dùng chất phóng xạ để truy tầm những đấu hiệu bất bình thường trong cơ thể, hầu hết là truy tầm bệnh ung thư hay ung thư di căn. Tuỳ theo trường hợp, bệnh nhân sẽ được tiêm, uống, hay hít thở hơi có chất phóng xạ, gọi là radiotracer. Nguyên tắc là, các tế bào bất thường, như ung thư chẳng hạn, thường tụ tập thành khối u, và sử dụng nhiều máu, nhiều oxigen, ăn nhiều đường, tiêu hoá và sanh sản nhanh hơn tế bào thường. Như thể nhờ vào chất phóng xạ, những chỗ bất thường nầy sẽ hiện lên hình bất thường ở những tụ điểm. PET scan thường kết hợp với CT hay MRI, vì hai thử nghiệm trên chỉ phát hiện hình ảnh, thí dụ khối u chẳng hạn, trong khi đó PET sẽ cho biết khối u đó là ung thư hay không.
5. Siêu âm, ultrasound là gì?
Ultrasound, còn gọi là sonogram, là thử nghiệm dùng sóng âm thanh, siêu âm để tạo ra hình ảnh. Tương tự như sóng radar mà các loài dơi dùng để định hướng, hay ứng dụng dò tìm tàu ngầm, tìm máy bay cho trạm không lưu, hay tìm... cá cho dân đi câu! Thiết bị phát âm thanh sẽ bắn ra sóng âm thanh, khi đụng vật thể muốn dò tìm sẽ dội lại tạo ra hình ảnh. Trong nghề cấy thai nhân tạo của tôi, máy siêu âm là con mắt thứ ba của tôi mỗi ngày. Nhiều bệnh nhân hỏi tôi có an toàn không. Xin trả lời là rất an toàn, vì nó chỉ là sóng âm thanh, không có phóng xạ gì cả. Chỉ là âm thanh mà chỉ có loài dơi hay những chú chó có thể nghe được mà thôi.
6. Mức độ an toàn của các thử nghiệm?
Như thế, MRI và sonogram có lẽ an toàn nhất vì chẳng dính dáng gì tới phóng xạ, radiation cả. Millisievert (mSv) là đơn vị để đo độ phóng xạ. Mỗi năm, trung bình mỗi người chúng ta chịu độ phóng xa là 3 mSv từ môi trường xung quanh. Trong một chuyến bay 5 tiếng từ Los Angeles qua New York, mỗi hành khách sẽ bị nhiễm phóng xa khoảng 0.03 mSv. Trung bình chụp hình X-rays, tuỳ theo bộ phận của cơ thể, độ nhiễm phóng xạ từ 0.001 mSv cho đến 1.5 mSv, thí dụ chụp hình ngực mammogram là 0.4 mSv và chụp hình phổi là 0.1 mSv, độ nhiễm ít hơn là một ngày phơi nắng ngoài biển! Trong khi đó, CT scan, độ nhiễm phóng xạ từ 2 dến 20 mSv. Còn, mỗi PET scan, sẽ gây ra phóng xạ khoảng 25 mSv.
So ra thì độ nhiễm phóng xạ của các phương pháp chụp hình cũng không đến nỗi nào, vì lâu lâu mới chụp một lần, và nếu cần là chuyện phải làm mà thôi. Nhờ vào những phát minh này mà y khoa có thể dò tìm và chữa trị bệnh mau chóng.
Rủi Ro Nhiễm Phóng Xạ Khi Làm CT Scan
Chúng ta nên thận trọng khi quyết định đi làm CT scan vì rủi ro bị nhiễm phóng xạ hết sức nguy hiểm. 
BỆNH NHÂN BỊ TIA PHÓNG XẠ GÂY HẠI trong một số khám nghiệm y khoa là điều rõ ràng. Tuy nhiên, để bệnh nhân tiếp xúc với tia phóng xạ bao nhiêu thì mới gọi là nguy hiểm?
Các cuộc nghiên cứu mới đây đưa ra lời báo động cho rằng thủ tục làm CT scan được dùng ngày càng nhiều lúc gần đây, đưa đến nhiều nguy hiểm cho bệnh nhân. CT scan là viết tắt của chữ “computed tomography” nghĩa là kỹ thuật chụp hình các bộ phận bên trong cơ thể con người. Đôi khi còn gọi là “imaging” hay nội soi. Bác sĩ thường dùng phương pháp này để chẩn đoán bệnh. CT scan được sử dụng để tìm đủ mọi loại bệnh từ nơi nào nhiễm trùng, té ngã vỡ sọ, hay tìm bệnh ung thư.
Bác sĩ Rebecca Smith-Bindman, ở bệnh viện UC San Francisco, và ê kíp chuyên viên của bà vừa mới đưa ra một phúc trình nghiên cứu cho biết họ tỏ ý lo ngại vì phương pháp CT scan được dùng khá nhiều lúc gần đây, tăng gấp ba lần kể từ năm 1996 cho đến nay. Bản phúc trình nghiên cứu nói rằng kỹ thuật CT scan phóng ra nhiều chất phóng xạ (radiation) hơn là phương pháp chụp bằng quang tuyến X thông thường. Đặc biệt đối với trẻ em, rủi ro nhiễm phóng xạ còn cao hơn gấp bội phần. Một nhóm nghiên cứu quốc tế công bố bản báo cáo cho thấy trẻ em đang mạnh khoẻ, lỡ bị té ngã, đem các em đi làm CT scan, các em có nhiều rủi ro sẽ bị ung thư so với trẻ em từ chối không làm CT scan. Cuộc nghiên cứu này kéo dài 23 năm theo dõi. Những em làm CT scan có nhiều rủi ro bị ung thư não gấp ba lần, và ung thư máu gấp bốn lần.
Các chuyên gia không đồng ý với nhau trong việc giải thích kết quả của cuộc nghiên cứu khiến cho nhiều bệnh nhân đang lo âu. Tổ chức Radiology Society of North America vẫn cả quyết rằng rủi ro gây ra bệnh ung thư vì làm CT scan rất nhỏ so với những ích lợi mà kỹ thuật này giúp bác sĩ chẩn đoán bệnh. Ông Mark Pearce, một trong những tác giả nghiên cứu về rủi ro xảy ra cho trẻ em, thuộc trường đại học Newcastle University nói rằng; “Mặc dầu rủi ro có thể là gấp ba lần, nhưng đó là gấp ba lần của một con số rất nhỏ.”. Nhiều chuyên viên về quang tuyến, trong đó có cả bác sĩ Smith-Bindman, biện minh cho lập trường của mình, và họ nói rằng việc dùng kỹ thuật CT scan đã bị lạm dụng vì dễ sử dụng. Thậm chí, bệnh nhân đòi yêu cầu phải cho đi làm CT scan, và bác sĩ không ngần ngại cho đi làm CT scan chỉ vì sợ rằng mình có thể đã bỏ sót, chưa làm đầy đủ mọi chẩn đoán.
Dầu sao đi nữa, kết quả nghiên cứu cũng khiến cho các bác sĩ phải suy nghĩ lại trước khi quyết định gửi người bệnh đi làm CT scan. Bác sĩ Smith-Bindman đề nghị: “Chúng ta nên suy nghĩ lại và quyết định xem chúng ta có nên làm việc nội soi cho bệnh nhân hay không, và việc nội soi đó có được chứng minh là cần thiết cho bệnh nhân hay không.”
Lượng Phóng Xạ cho mỗi lần làm CT scan phần ngực gây nguy hại tương đương với:
a.) 1,400 lần chụp hình răng bằng quang tuyến X, 
b.) 240 lần đi máy bay kéo dài 5 tiếng đồng hồ, 
c.) 70,000 đi qua máy dò xét ở phi trường, 
d.) 19 năm hút thuốc lá, mỗi ngày hút một gói 20 điếu.
Lấy đơn vị đo phóng xạ mSv làm chuẩn: Mỗi lần chụp quang tuyến X phần ngực chỉ bị 0.1 mSv. Dùng CT scan sẽ bị 7 mSv phóng xạ

Bài tường trình của Alice Park trên báo TIM
Nguyễn Minh Tâm dịch 

Sự Khác Biệt Giữa Vi trùng (Viruses) và Vi khuẩn (Bacteria) 
Sự Lây Lan Và Cách Phòng Ngừa ?
Virus và vi khuẩn đều là những nguyên nhân gây bệnh chủ yếu khi hệ miễn dịch của con người bị suy yếu.
Chúng ta nên biết rõ sự khác nhau giữa virus và vi khuẩn để có cách phòng và điều trị bệnh hợp lý khi bị bệnh do vi khuẩn hoặc virus gây ra.
1. Vi khuẩn là gì ?
Vi khuẩn thuộc loại đơn bào, có ở khắp mọi nơi, chỉ một giọt sữa chua là có thể chứa 100 triệu vi khuẩn. Hầu hết các vi khuẩn sinh sản bằng cách phân bào (một tế bào tách làm đôi).
Vi khuẩn giữ vai trò quan trọng trong quá trình tiêu hóa của người và vật, giúp hóa mùn cây cối và súc vật chết, giúp cho tiến trình lên men hiệu quả.
Vi khuẩn có vai trò quan trọng trong tái chế chất dinh dưỡng như cố định nitơ từ khí quyển và gây thối rữa sinh vật khác.
2. Virus (Vi rút) là gì ? 
Vi rút lớn lên và phát triển chỉ khi chúng sống trong tế bào sống. Sống ngoài tế bào sống, vi rút sẽ tự hủy diệt, không thể phát triển, trừ khi chúng sống trong tế bào động vật, thực vật hay vi khuẩn.
Vi rút gây bệnh cho người và vật, do thở hay nuốt vào, đột nhập vào lỗ hổng trên da.
Virus bao gồm vật liệu di truyền (DNA hoặc RNA) bao quanh bởi một lớp phủ bảo vệ của protein. Có khả năng bám vào các tế bào và nhận được bên trong chúng.
Virus có thể xâm nhiễm vào tất cả các dạng sinh vật, từ động vật, thực vật cho tới vi khuẩn và vi khuẩn cổ.
3. Sự khác nhau giữa vi khuẩn và virus ?
(Chú thích: dấu + là Có, dấu – là Không)
* Vi khuẩn (Bacteria) - Gây viêm nhiễm nhưng diệt được
Vi khuẩn còn được gọi là vi trùng, chúng hiện diện khắp nơi trong đất, nước và ở dạng cộng sinh với các sinh vật khác. Một số là tác nhân gây bệnh và gây ra bệnh uốn ván, thương hàn, giang mai, tả, bệnh lây qua thực phẩm và lao.
Một số nhiễm khuẩn có thể lan rộng ra khắp cơ thể và trở thành bệnh toàn thân.
Bệnh do vi khuẩn lây nhiễm qua tiếp xúc, không khí, thực phẩm, nước và côn trùng.
Vi khuẩn gây viêm nhiễm nhưng diệt được mầm bệnh, bệnh do bị nhiễm khuẩn có thể trị bằng thuốc kháng sinh, được chia làm hai nhóm là diệt khuẩn (bacteriocide) và kìm khuẩn (bacteriostasis), với liều lượng mà khi phân tán vào dịch cơ thể có thể tiêu diệt hoặc kìm hãm sự phát triển của vi khuẩn.
* Virus - Thuốc kháng sinh vô tác dụng với virus
Vi rút chỉ có thể sống và phát triển được khi xâm nhập vào bên trong tế bào của sinh vật khác (người, động vật và cây cỏ) và khi ra khỏi ký chủ, vào môi trường ngoài (nước, không khí…) chúng sẽ không sống được lâu.
Ngày nay, khoa học đã phát hiện có khoảng 2.000 loài vi rút khác nhau, trong đó có khoảng 300 loài có khả năng gây bệnh cho người như AIDS, viêm gan B và C, sốt xuất huyết, bại liệt, bệnh dại, đậu mùa, cúm…
Khác với vi khuẩn, vi rút đánh vào hệ miễn dịch của cơ thể nên điều trị bằng kháng sinh không có tác dụng mà chỉ có thể chống lại bằng cách tiêm vaccin.
Riêng các loại vi rút gây cúm, vì chúng biến chủng rất nhanh nên vaccin chế từ virus năm này lại không hữu hiệu với cùng virus ấy cho năm tới. Vì thế các loại vaccin hiện có không ngừa được virus cúm A (H1N1).
Khi thời tiết chuyển mùa hay trở lạnh sẽ là điều kiện thuận lợi để vi rút gây bệnh.
4. Tại sao thuốc kháng sinh (antibiotic) không điều trị được bệnh do virus gây ra ?
Năm 1928, tại Bệnh viện Saint Mary (London), Alexander Plemming phát hiện ra chất kháng sinh (antibiotic) diệt khuẩn và đặt tên là penicillin.
Loại kháng sinh này được tìm ra từ nấm Penicillium notatum. Sau đó có rất nhiều nhà nghiên cứu về kháng sinh penicillin và đến năm 1943, dự án sản xuất penicillin được Chính phủ Mỹ chấp nhận và từ đây kháng sinh penicillin chính thức ra đời, cứu sống được vô vàn người mắc bệnh nhiễm khuẩn.
Từ penicillin, nhiều nhà nghiên cứu đã tìm tòi ra vô vàn các loại kháng sinh khác nhau và đã xếp chúng thành nhiều nhóm dựa vào cấu tạo và cơ chế tác dụng đối với vi khuẩn.
Kháng sinh (Antibiotic) đối với virut thì như thế nào?
Do cấu tạo virut hoàn toàn khác biệt với tế bào vi khuẩn và nó không phải là một tế bào hoàn chỉnh bởi cấu tạo đơn giản hơn rất nhiều so với tế bào vi khuẩn chỉ là bộ gen (hoặc DNA hoặc RNA) bao quanh là lớp vỏ protein chứa nhiều kháng nguyên, vì vậy được gọi là “phi tế bào”.
Do cấu tạo đặc biệt đó nên bắt buộc virut phải sống ký sinh bên trong tế bào túc chủ mà nó xâm nhiễm, bởi vì virut không có hệ thống enzym hoàn chỉnh nên không thể tự tạo ra năng lượng cho mình hoặc tự sinh sôi nảy nở được.
Do đó, để tồn tại và phát triển thì virut phải xâm nhập vào trong các tế bào khác (tế bào túc chủ) và “gửi” các vật liệu di truyền của mình.
Khi vào cơ thể, áo protein bị loại bỏ, chỉ hoạt động bởi ARN hoặc ADN của nó, không có cách gì để nhận biết. Hơn nữa, kháng sinh diệt được vi khuẩn vì vi khuẩn ký sinh ngoài tế bào nên kháng sinh có thể diệt nguyên vi khuẩn, còn virut nằm trong vật chất di truyền của tế bào túc chủ cho nên nếu kháng sinh diệt virut thì đồng nghĩa với diệt cả tế bào của túc chủ (người hoặc động vật).
Vì vậy, nếu thuốc kháng sinh muốn tấn công virut sẽ phải biết chọn lọc không tấn công vào các bộ phận “tầm gửi” này (tức là không tấn công vào tế bào túc chủ) và đây thực sự là cản trở cực lớn.
Hơn thế nữa, virut còn có khả năng nằm ẩn mình vài năm trong tế bào trước khi phát bệnh.
Để thay vì dùng kháng sinh không có tác dụng đối với virut, các nhà khoa học đã nghiên cứu thành công một số thuốc diệt virut dựa trên cơ sở sự hiểu biết về cấu trúc và cơ chế xâm nhiễm, nhân lên trong tế bào túc chủ của virut.
Tuy vậy, virut luôn thay đổi hình dạng và do đó luôn có khả năng kháng lại thuốc, đó là những điều bất lợi cho việc dùng thuốc tiêu diệt chúng.
5. Virus và vi khuẩn lây lan như thế nào ? 
– Một người bị lạnh có thể lây nhiễm vi khuẩn hoặc virus bằng cách ho hoặc hắt hơi.
– Vi khuẩn hoặc virus có thể được lây lan bằng cách chạm hoặc bắt tay với người khác.
– Chạm vào thức ăn với bàn tay bẩn cũng sẽ cho phép virus hoặc vi khuẩn từ ngoài lây lan tới ruột.
– Lây qua dịch cơ thể: như máu, nước bọt và tinh dịch, có thể chứa các vi sinh vật, ví dụ bằng cách tiêm hoặc quan hệ tình dục (đặc biệt là các bệnh nhiễm trùng do virus như viêm gan hoặc AIDS).–
Virus lây lan theo nhiều cách; virus thực vật thường được truyền từ cây này sang cây khác qua những loài côn trùng hút nhựa cây như rệp vừng; trong khi virus động vật lại có thể được truyền đi nhờ những côn trùng hút máu. Những sinh vật mang mầm bệnh như vậy được gọi là những vector.
Virus cúm lan truyền thông qua ho và hắt hơi. Norovirus và rotavirus, nguyên nhân chính của bệnh viêm dạ dày-ruột siêu vi, lây lan qua đường phân-miệng và truyền từ người này sang người khác thông qua tiếp xúc, cũng như xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hay nước uống.
HIV là một trong vài loại virus lây nhiễm thông qua quan hệ tình dục và tiếp xúc với máu bị nhiễm bệnh. Mỗi virus chỉ có thể xâm nhiễm vào một số dạng tế bào vật chủ nhất định, gọi là “biên độ vật chủ” (host range); biên độ này có thể rất hẹp hoặc rất rộng, tùy vào số lượng những sinh vật khác nhau mà virus có khả năng lây nhiễm. 
Sự xâm nhập của virus trong động vật đã kích hoạt một phản ứng miễn dịch nhằm loại bỏ virus xâm nhiễm. Những phản ứng miễn dịch cũng có thể được tạo ra bởi vaccin, giúp tạo ra miễn dịch thu được nhân tạo đối với một virus xâm nhiễm nhất định.
Tuy nhiên, một số virus, bao gồm những loại gây ra AIDS và viêm gan siêu vi, lại có thể trốn tránh những phản ứng trên và gây ra sự nhiễm bệnh mãn tính. Đa phần các chất kháng sinh không có hiệu quả đối với virus, dù vậy cũng đã có những loại thuốc kháng virus được phát triển.
6. Làm thế nào để tránh nhiễm trùng ? 
- Rửa tay thật kỹ (thường là một trong những cách tốt nhất để tránh bị cảm cúm).
– Bắt tay với người bị cảm lạnh là nguy hiểm, do đó, tránh dụi mắt hoặc mũi của bạn sau đó.
– Thức ăn phải được nấu chín hoặc làm lạnh càng nhanh càng tốt.
– Rau và thịt phải được lưu giữ riêng và chuẩn bị trên thớt riêng biệt.
– Khi bị cảm cúm, hoặc hắt hơi, sổ mũi cần chuẩn bị khăn giấy, khăn cá nhân để ngăn chặn đưa virus, vi khuẩn ra ngoài môi trường. Cần luyện thói quen ho vào cánh tay áo (nếu không có khăn giấy) và khạc nhổ vào giấy vệ sinh rồi gói lại cho vào thùng rác. 
– Một số sinh vật bị giết khi thức ăn được nấu chín, nhưng chúng vẫn có thể để lại các chất độc hại có thể gây ra tiêu chảy và nôn mửa. Hạn chế ăn các thức ăn để qua đêm, vì dù đun sôi, vi khuẩn có thể chết, nhưng độc tố gây bệnh do vi khuẩn tạo ra trong thực phẩm vẫn còn.
– Việc sử dụng bao cao su trong quan hệ tình dục làm giảm khả năng lây lan bệnh qua đường tình dục.
– Giữ phong cách sống và tinh thần tốt để có hệ miễn dịch khỏe mạnh.
7. Một số bệnh do vi rút gây ra và cách phòng bệnh
Tiêu chảy do vi rút: Bệnh tiêu chảy mùa đông do Rota vi rút gây ra và thường chỉ kéo dài trong 3 – 7 ngày. Khi bị bệnh thường có biểu hiện sốt nhẹ, hơi mệt, nôn, tiêu chảy, ở trẻ em có quấy khóc… Người bệnh đi ngoài nhiều lần, phân lỏng, màu vàng chanh hoặc trắng lẫn dịch nhầy, có khi như màu hoa cà, hoa cải. Là một bệnh thông thường, nhưng nếu bị tiêu chảy kéo dài dẫn đến mất nước, mất điện giải trầm trọng có thể dẫn tới tử vong nếu không được bù nước, bù điện giải kịp thời.
Sốt do vi rút: Các triệu chứng sốt vi rút điển hình là ban đầu sốt nhẹ khoảng 38 – 38,5 độ C, sau đó bùng lên sốt cao đến 39 độ C hoặc cao hơn. Nhiều người đau họng, ho hắng nhẹ, đau nhức mình mẩy, vã mồ hôi, mệt mỏi, thường sau 5 – 6 ngày, bệnh sẽ tự khỏi.
Về điều trị, chỉ cần dùng thuốc hạ sốt khi sốt cao, hoặc dùng các loại thuốc cảm để chữa triệu chứng đau nhức, sổ mũi, ho… Ngoài ra nên súc miệng nước muối và nhỏ mũi thường xuyên. Không nên dùng kháng sinh.
Sốt vi rút là bệnh dễ lây, nhất là trong gia đình và công sở, nơi dùng điều hòa không khí. Do đó, người bị sốt vi rút nên hạn chế tiếp xúc với người khác, nhất là trẻ em. Nếu mệt nặng, nên nghỉ làm. Những người xung quanh nên phòng bệnh bằng cách nhỏ nước muối, ăn nhiều hoa quả giàu vitamin C và bảo vệ sức khỏe. Để cơ thể có sức đề kháng tốt cần ăn uống phong phú, đủ dinh dưỡng, ăn thức ăn dễ tiêu như cháo, súp… ngoài ra nên uống nhiều nước, nước lọc, nước hoa quả…
8. Cách phòng ngừa các bệnh do vi khuẩn và virus gây ra
Bạn cần có một phong cách sống lành mạnh, tinh thần tích cực để giúp hệ miễn dịch khỏe mạnh.
Vì khi hệ miễn dịch yếu thì vi khuẩn hoặc virus nào cũng có thể tấn công bạn.
Bạn cần thực hiện 8 điều tốt sau đây: 
– Ăn tốt: đủ dinh dưỡng, cân bằng, hợp lý, tươi, sạch, an toàn,
– Uống đủ nước và đúng cách.
– Ngủ tốt: ngủ đúng giờ, phòng thoáng khí, đông ấm, hè mát, ngủ sâu giấc.
– Tập tốt: Tập thể dục và vận động hàng ngày, để thúc đẩy quá trình trao đổi chất và đào thải độc tố.
– Nghĩ tốt: suy nghĩ tích cực, lạc quan, để có sức khỏe tinh thần tốt.
– Môi trường sống tốt: xanh, sạch, đẹp.
– Học tốt: học các kiến thức chăm sóc, bảo vệ và phòng bệnh mỗi ngày.
– Làm tốt: Làm tốt công việc của bạn để có tài chính tốt đảm bảo cho bản thân và gia đình.

Thứ Tư, 13 tháng 12, 2017

QUẢ KIWI


QUẢ KIWI
VietBF © Sưu Tầm

Quả kiwi - 99% dân số ăn Kiwi sai cách
Quả kiwi hay quả dương đào là một loại trái cây mọng trong chi Actinidia (Dương đào) được đánh giá là một trong 10 loại hoa quả tốt nhất mà thế giới từng biết đến. Hiện nay kiwi vàng được trồng thương mại nhiều nơi, trong đó có: New Zealand, Nhật, Úc, Hoa Kỳ... Có một điểm chung dễ nhận thấy giữa các vùng trồng được quả kiwi, đó đều là những quốc gia có nền nông nghiệp thịnh vượng với trình độ kỹ thuật cực cao. 
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học thì những quả kiwi đầu tiên xuất hiện ở thung lũng Dương Tử - Trung Quốc; mãi tới năm 1992, kiwi vàng mới có mặt tại New Zealand. Là một trong những nước đầu tiên trồng được kiwi nên sản lượng kiwi của New Zealand chiếm tới 28% tổng sản lượng của thế giới. Các chuyên gia về nông nghiệp cho rằng trái kiwi ở đây cho hương vị cũng như chất lượng tốt nhất. 
Quả kiwi thì có quanh năm, tuy nhiên chính vụ của chúng là từ tháng 5 đến tháng 11 dương lịch. Đây là thời điểm những trái kiwi ngon ngọt nhất, mọng nhất mà giá cũng tốt nhất.
Hiện nay, Kiwi có 2 giống chính: Kiwi xanh và Kiwi vàng. Trong đó, kiwi xanh là giống thuần chủng (nguyên sơ từ thời cổ đại), còn kiwi vàng là giống lai tạo (do con người tạo ra). Gần đây có xuất hiện thêm giống kiwi đỏ, tuy nhiên mới chỉ trong giai đoạn thử nghiệm, thành phẩm chưa ổn định nên không thấy hàng trên thị trường. 
Về hương vị thì có thể tự tin những trái kiwi vàng Newzealand là loại ngon nhất thế giới, nó là sự kết hợp giữa vị chua thanh mát và vị ngọt ngào thơm thảo cao nhất. Giá kiwi vàng cao hơn kiwi xanh cũng vì lẽ đó, kiwi xanh khi chín cũng không ngọt được tới 70% như kiwi vàng.
99% dân số ăn Kiwi sai cách... 'ăn thế này mới đúng':
Kiwi chứa nhiều chất dịnh dưỡng có lợi cho sức khỏe. Thế nhưng, nhiều người lại không biết cách ăn Kiwi đúng cách. Ăn sai cách khiến vitamin P trong loại quả này bị biến mất.
Kiwi là loại trái cây chứa nhiều vitamin và khoáng chất, không chỉ tốt cho sức khỏe mà còn tốt cho làn da và vóc dáng. Thế nhưng, hầu như ai ăn kiwi cũng đều gọt bỏ phần vỏ đi vì nghĩ rằng, phần vỏ kiwi không ăn được và cũng chẳng có dinh dưỡng gì. Tuy nhiên, đài Chosun Hàn Quốc đã chỉ ra sai lầm này để bạn biết rằng, bạn đã làm mất bao nhiêu giá trị dinh dưỡng của kiwi từ hành động này.
Theo chuyên gia tư vấn Kim Si Wan mà chương trình mời đến đã cho biết, trong quả kiwi có một loại vitamin P hay còn gọi là quercetin có vai trò như một chất chống oxy hóa và ngăn ngừa ung thư hiệu quả.
Tuy nhiên, điều ít ai ngờ rằng hợp chất quercetin này thay vì nằm ở phần thịt quả thì lại nằm hầu hết ở phần vỏ kiwi. Trên thực tế, 100gr phần thịt kiwi chỉ chứa 55,1mg quercetin nhưng ở 100gr vỏ lại chứa đến 2610mg quercetin.
Như vậy, hàm lượng vitamin P hay còn gọi là quercetin ở vỏ kiwi cao hơn gần 50 lần so với phần thịt quả. Thế mà từ trước đến giờ, khi ăn kiwi thì hầu như ai cũng gọt bỏ lớp vỏ giàu dưỡng chất này đi rất lãng phí.
Và chương trình cũng cho biết thêm rằng: do phần vỏ kiwi có lông tơ sẽ hơi khó ăn nếu để nguyên tình trạng vỏ thế này. Tuy nhiên, vì lông tơ khá mềm và mảnh nên việc làm sạch lông tơ không hề khó. Bạn cứ cho kiwi vào nước giấm pha loãng và ngâm trong khoảng 1 phút rồi dùng miếng rửa bát sạch chà nhẹ qua bề mặt vỏ là loại bỏ lông tơ được ngay.

Sau khi đã làm sạch lông tơ của quả kiwi xong thì những người tham gia chương trình đều được thưởng thức thử quả kiwi còn vỏ. Hầu như ai cũng ngạc nhiên bởi vỏ kiwi rất mềm và dễ ăn, nhất là không gây cảm giác khó chịu khi nhai hoặc nuốt. Đặc biệt, ăn kiwi cả vỏ còn được cảm nhận là có cảm giác ngon hơn việc chỉ ăn mỗi phần thịt quả không.

Như vậy, không phải loại quả nào gọt bỏ vỏ đi đều là cách làm đúng bạn nhé. Nhất là đối với quả kiwi này, nếu gọt bỏ vỏ đi thì giống như bạn đang ném vào thùng rác một lượng vitamin P vô cùng lớn.
Do đó, đài Chosun đã khuyên chúng ta khi ăn kiwi thì chỉ nên làm sạch phần lông tơ và thưởng thức cả vỏ để mang lại nhiều dinh dưỡng hơn cho cơ thể. Tuy nhiên, do ăn cả lớp vỏ bên ngoài nên bạn cần rửa kiwi thật sạch trước khi ăn nhằm loại bỏ tối đa bụi bẩn cũng như hóa chất còn bám trên bề mặt vỏ để an toàn hơn cho sức khỏe.
14 lý do nên ăn trái kiwi
Những lý do dưới đây sẽ giúp bạn hiểu tại sao chúng ta nên ăn trái kiwi, một loại trái cây rất phổ biến. Một nghiên cứu cho thấy sự kết hợp của các chất chống oxy hóa trong kiwi giúp bảo vệ ADN khỏi quá trình oxy hóa. Thêm vào đó, kiwi còn có khả năng ngăn chặn ung thư.
Theo Fitnea, trái kiwi không chỉ trông hấp dẫn bởi màu xanh bắt mắt và mùi vị ngon lành mà còn rất tốt cho sức khỏe. Do đó, hãy thêm loại trái cây này vào thực đơn ăn uống của bạn.
Kiwi chứa một số enzim tốt cho hệ tiêu hóa
Kiwi chứa actinidain là loại enzim có khả năng phân hủy protein và cải thiện hệ tiêu hóa (giống như bromelin trong dứa hoặc papain trong đu đủ).
Giúp điều chỉnh huyết áp.
Trong trái kiwi chứa hàm lượng cao kali, giúp cân bằng electron trong cơ thể nhờ vào cơ chế làm trung hòa hàm lượng natri.
Bảo vệ ADN.
Một nghiên cứu đã chứng minh sự kết hợp của các chất chống oxy hóa trong kiwi giúp bảo vệ AND khỏi quá trình oxy hóa. Bên cạnh đó, kiwi còn có khả năng ngăn chặn ung thư.
Trái kiwi rất tốt cho cơ thể. (Ảnh: Wikipedia)
Tăng cường hệ thống miễn dịch
Hàm lượng cao vitamin C cùng các hợp chất chống oxy hóa trong trái kiwi đã được chứng minh có khả năng tăng cường hệ miễn dịch.
Giúp giảm cân
Chỉ số glycemic thấp và hàm lượng chất xơ cao trong kiwi không làm tăng đột ngột lượng insulin như một số loại trái cây chứa nhiều glucose khác. Vì vậy, dù có ăn nhiều kiwi bạn cũng không bị béo phì. Hơn nữa, những người đang trong thời kỳ ăn kiêng giảm béo nên thêm loại trái cây này vào thực đơn.
Cải thiện hệ tiêu hóa
Kiwi là nguồn chất xơ tuyệt vời, có thể ngăn ngừa táo bón và tiêu chảy cũng như những vấn đề về ruột khác.
Giúp loại bỏ độc tố ra khỏi cơ thể
Hàm lượng chất xơ trong kiwi có tác dụng loại độc tố ra khỏi hệ thống đường ruột.
Chống lại bệnh tim
Ăn 2/3 trái kiwi mỗi ngày có tác dụng làm giảm nguy cơ đông máu đến 19% và giảm hàm lượng chất béo đến 16%. Nhiều người dùng aspirin để giảm đông máu nhưng chính loại thuốc này lại gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng, chẳng hạn chứng viêm và chảy máu đường ruột. Trong thành phần trái kiwi chứa chất chống đông máu, vừa không có bất kỳ ảnh hưởng nào mà còn tốt cho sức khỏe.
Thích hợp cho những bệnh nhân tiểu đường
Với hàm lượng thấp glycemic, kiwi không làm tăng lượng đường trong máu một cách đột ngột. Hàm lượng glycemic phù hợp trong loại trái cây này luôn an toàn cho bệnh nhân tiểu đường.
Có thể chống thoái hóa hoàng điểm
Thoái hóa hoàng điểm trong mắt là nguyên nhân chính của bệnh quáng gà ở nhóm người lớn tuổi. Một nghiên cứu chỉ ra rằng ăn 3 trái kiwi mỗi ngày (hoặc nhiều hơn) có tác dụng làm giảm thoái hóa hoàng điểm đến 35%. Hàm lượng cao lutein và zeaxanthin trong kiwi cũng là hóa chất tự nhiên được tìm thấy trong mắt người.
Tạo sự cân bằng kiềm
Kiwi đứng đầu danh sách trái cây chứa kiềm. Điều này có nghĩa là nó chứa lượng khoáng chất dồi dào để thay thế những thực phẩm có vị chua quá mức.
Dinh dưỡng tuyệt vời cho da
Nguồn vitamin E trong kiwi được biết đến như chất chống oxy hóa, có tác dụng bảo vệ da khỏi tình trạng thoái hóa.
Nguồn dinh dưỡng phong phú
Kiwi trông đẹp mà lại ngon, trẻ em thích loại trái cây này bởi trông nó thật khác biệt. Với nguồn dưỡng chất cân bằng, kiwi thật sự tốt cho cơ thể mọi người, mọi lứa tuổi, mọi chế độ ăn uống.
Là nguồn hữu cơ tự nhiên
Kiwi nằm trong danh sách thực phẩm an toàn trước nhiều loại thuốc trừ sâu. Năm 2011, nó được nằm trong top 10 loại thực phẩm an toàn nhất thế giới.
CLICK VÀO ĐỂ XEM THÊM : 
                                    6 lợi ích bất ngờ của trái kiwi.

Thứ Ba, 12 tháng 12, 2017

DẤU PHẨY

DẤU PHẨY

Nguồn: Internet


Trong phiên tòa xử vụ ly dị, tòa phán với ông chồng:
– Ở với vợ lớn, không được ở với vợ nhỏ.
Ông chồng về nhà đưa bản án cho bà vợ lớn, chỉ sửa lại dấu phẩy:
– Ở với vợ lớn không được, ở với vợ nhỏ. 
Có người hỏi nhà văn Oscar Wilde (1856 – 1900) sao ông thường có vẻ đăm chiêu. Nhà văn Anh này đáp: “Sáng nay tôi đã bỏ quên một dấu phẩy trong một bài thơ. Chiều nay tôi phải lấy lại”.
Sai một phẩy, nhảy ngàn dặm!
Một giáo viên tiếng Anh đã đề nghị mỗi sinh viên đặt những dấu thích hợp vào câu sau: “ Woman without her man is nothing ”. Bọn con trai ngắt câu: “Woman, without her man, is nothing” (đàn bà, nếu thiếu đàn ông của mình thì chẳng là gì cả). Bọn con gái lại ngắt câu như sau: “Woman: without her, man is nothing” (phụ nữ: thiếu cô ta, đàn ông chẳng là gì cả).
Một phụ nữ Mỹ đi du lịch ở châu Âu gửi điện về cho chồng: “Có một chiếc xuyến đẹp mê hồn, giá 75 đô. Em mua được không?” Anh chồng lập tức trả lời “No, price too high” (không, giá quá cao) nhưng nhân viên điện tín mắc một sai lầm nhỏ đã bỏ qua dấu phẩy và thành: “No price too high” (không giá nào là quá cao). Được lời như cởi tấm lòng, cô vợ mua ngay chiếc xuyến. Khi về Mỹ, cô vợ khoe chiếc xuyến làm người chồng choáng váng. Người chồng đem vụ “bỏ sót dấu phẩy” này ra toà và thắng kiện. Từ đây, các hãng điện tín đòi hỏi nhân viên phải đánh vần dấu câu trong bức điện chứ không dùng ký hiệu nghĩa là phải viết “No comma price too high” (không phẩy giá cao quá).
Dấu phẩy đôi khi có giá đến nửa triệu đô. Năm 1870, trong danh sách các mặt hàng được miễn thuế vào Mỹ, lẽ ra là câu “Tropical fruit-plants for the purpose of propagation” (các cây nhiệt đới ăn trái nhằm mục đích nhân giống) thì người ta đánh nhầm dấu nối thành dấu phẩy, thành “Tropical fruit, plants for the purpose of propagation” (trái cây nhiệt đới, cây nhằm mục đích nhân giống). Thế là toàn bộ các loại trái cây nhiệt đới được nhập miễn thuế vào Mỹ. Tới khi người ta phát hiện ra sai sót chết người này thì đã mất khoảng 500.000 USD tiền thuế không đòi lại được!
Được yêu, được sống nhờ dấu phẩy:
Ông bố nọ muốn lấy tên nhà thơ La Mã vĩ đại Virgile đặt cho con trai mình. Khốn nỗi, ông lúng túng viết nhầm thành Virgule, tiếng Pháp có nghĩa là dấu phẩy. Anh chàng lớn lên cũng khẳng khiu như dấu phẩy, không thành nhà thơ mà vào làm bưu điện. Anh thầm yêu trộm nhớ cô hàng xóm Sophie. Cô gái này lại yêu chàng trai không yêu cô. Bao nhiêu thư gửi đi mà không nhận được hồi đáp. Rồi một hôm, cô quyết định ra bưu điện gửi bức điện (chứ không viết thư nữa) cho chàng trai nọ.
– Tôi muốn gửi một bức điện – cô buồn rầu nói, mắt không nhìn Virgule, nhân viên bưu điện.
– Cô vui lòng đọc nội dung – Virgule cầm bút cảm động lắp bắp nói.
– “Je t’aime, virgule, Je t’adore, virgule, Je voudrais tant que tu me dises que tu m’aimes aussi, point” (Em yêu anh, phẩy, em thương anh, phẩy, em muốn anh cũng nói với em rằng anh cũng yêu em, chấm)
Anh chàng Virgule không cho virgule là dấu phẩy mà hiểu đó là tên mình: Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule… Anh chàng bưu điện yêu cầu cô gái nhắc lại. Sophie làm theo: “Em yêu anh, Virgule, em thương anh, Virgule…” Mắt anh ta sáng lên. Sophie nhận ra anh chàng này đáng yêu làm sao. Và họ đến với nhau.
Còn đây là giai thoại về hoàng đế Nga Alexandre Đệ Tam (qua tiếng Anh): từ chối ân xá cho một phạm nhân, ông đọc “Pardon impossible, to be sent to Siberia” (Không thể ân xá, đày đi Siberia). Vợ ông là Dagmar (cháu gái vua Đan Mạch Christian IX) là một người vô tâm nên đã đánh nhầm dấu phẩy thành “Pardon, impossible to be sent to Siberia” (Ân xá, không thể đày đi Siberia). Thế là người tù này thoát tội!
Đặt sai dấu phẩy, biết bao chuyện dở cười dở khóc đã xảy ra!
Thêm một áp-phích tuyên truyền ở Việt Nam:
Gia đình nên có 2 con, vợ chồng hạnh phúc.
Gia đình nên có 2 con vợ, chồng hạnh phúc.
Dấu chấm phẩy thật quan trọng !