"
KẺ
LẠ" TRONG NGÔN NGỮ VIỆT
Lê Hữu
- Ai phụ trách khâu ẩm thực?
Câu ấy nghe được trong cuộc
họp của các thầy cô giáo ở một trường dạy tiếng Việt cho trẻ em, bàn về việc tổ
chức buổi picnic cho
thầy cô và phụ huynh học sinh. Xin mạn phép có một hai ý như thế này:
Thứ nhất, câu ấy có sáu chữ
thì hết bốn chữ là tiếng Hán-Việt (“phụ trách”, “ ẩm thực”).
Thứ hai, ba chữ cuối ở trong
câu (“khâu”, “ẩm thực”) là những chữ “mới” du nhập “từ Bắc vô Nam” sau năm
1975.
Giả dụ học sinh nghe được câu ấy
bèn giơ tay hỏi cô giáo ở trong lớp:- “Ẩm thực” là gì thưa Cô?
- “Ẩm” là uống, “thực” là ăn. “Ẩm thực” là tiếng Hán-Việt, có nghĩa là “ăn uống”.
- Tiếng Hán-Việt là tiếng gì vậy Cô?
- Là tiếng Hán, tức là tiếng Trung quốc, đọc theo âm Việt.
- Vậy sao mình không nói “ăn uống” là tiếng của mình mà lại nói “ẩm thực” thưa Cô?
- . . .
Cô giáo chắc cũng hơi bối rối
và cũng hơi khó trả lời, không lẽ lại nói là “Cô cũng không rõ nhưng nhiều người
đều… nói vậy”.
Em học sinh ấy nói đúng. Tại
sao người Việt ở trong nước và cả ở ngoài nước vẫn thích nói “ẩm thực” mà không
chịu nói “ăn uống”? Có phải vì nói “ăn uống” nghe phàm tục, nói “ẩm thực” nghe
thanh tao và “trí tuệ” (1) hơn chăng?
Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?” hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?” hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…
Trước năm 1975, người Việt ở miền Nam Việt Nam không nói “Ai phụ trách khâu ẩm thực?” mà có nhiều cách nói đơn giản hơn và dễ hiểu hơn, chẳng hạn: “Ai lo vụ ăn uống?” hoặc “Chuyện ăn uống ai lo?” hoặc “Thức ăn, thức uống ai lo?”…
Nếu cứ phải vay mượn tiếng
Hán-Việt hoặc tiếng nước ngoài trong sinh hoạt hàng ngày trong lúc kho tàng tiếng
Việt của chúng ta không hề thiếu thốn những chữ ấy thì thật khó mà thuyết phục
các em tin được rằng “tiếng Việt giàu và đẹp” như chúng ta vẫn tự hào. (Đã gọi
là “giàu” thì tại sao lại phải đi vay, đi mượn?!?). Những tiếng Hán-Việt nặng nề
và tối tăm ấy hoàn toàn không giúp gì được cho việc “giữ gìn sự trong sáng của
tiếng Việt” mà những người làm công tác giáo dục ở trong nước vẫn hô hào như là
một khẩu hiệu trong số rất nhiều khẩu hiệu thuộc loại “nói mà không làm” hoặc
“nói một đàng làm một nẻo” hoặc… “nói vậy mà không phải vậy”.
Những chữ nghĩa kiểu ấy khá
phổ biến đến mức xâm nhập cả vào các trường dạy tiếng Việt là nơi dạy học trò
nói đúng, viết đúng trong tinh thần “bảo tồn và phát huy văn hóa dân tộc”.
Dưới đây là một ít ví dụ và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):
Dưới đây là một ít ví dụ và các đề nghị nói thế nào cho đúng, rõ nghĩa, dễ hiểu và “Việt ngữ” hơn (chỉ là câu mẫu, người đọc có thể cho những câu khác tốt hơn):
- Thay vì nói: “Cô giáo Mỹ
Linh đứng lớp Năm” thì nên
nói: “Cô giáo Mỹ Linh dạy lớp Năm” (không có… đứng,
ngồi, nằm, quỳ chi cả).
- Thay vì nói: “Giáo viên cần
soạn giáo án trước khi lên lớp” thì nên nói: “Thầy cô cần soạn bài
giảng trước giờ dạy” (không có…lên, xuống, ra, vào chi cả).
- Thay vì nói: “Phụ huynh đăng
ký cho con em học Việt ngữ thì nên nói: “Phụ huynh ghi tên (hay ghi
danh) cho con em học tiếng Việt”.
- Thay vì nói: “Các em tiếp
thu tương đối chậm” thì nên
nói: “Các em hiểu chậm”.
- Thay vì nói: “Học sinh đi tham
quan một xí nghiệp” thì nên
nói: “Học sinh đi thăm một nhà máy”.
- Thay vì nói: “Ban văn nghệ
sẽ tham gia biểu diễn (2) một tiết mục”
thì nên nói: “Ban văn nghệ sẽ đóng góp một màn diễn (hay trình diễn)”.
- Thay vì nói: “Ban giảng huấn
sẽ dự giờ đột xuất các lớp học của giáo viên” thì nên nói: “Ban giảng huấn sẽ
bất ngờ vào lớp xem thầy cô giảng dạy”.
- Thay vì nói: “Lớp Vỡ Lòng chủ
yếu tập trung vào khâu đánh vần” thì nên nói: “Lớp Vỡ Lòng cần nhất là dạy
các em biết đánh vần”.
- Thay vì nói: “Cô giáo phát
hiện em Nga có năng khiếu về môn Văn” thì nên nói: “Cô giáo nhận thấy em
Nga có khiếu về môn Văn”.
- Thay vì nói: “Học sinh tranh
thủ ôn tập trước giờ thi” thì nên
nói: “Học sinh cố gắng ôn bài trước
giờ thi”.
- Thay vì nói: “Tuyệt đại
đa số các em tiếp thu tốt” thì nên nói: “Hầu hết các em hiểu bài”.
- Thay vì nói: “Cần nâng cao chất
lượng (3) trong công tác giảng dạy” thì nên nói: “Cần phẩm hơn
là lượng trong việc giảng dạy” hoặc “Cần dạy sao cho có kết quả”.......
Trên đây chỉ là một ít trong
số khá nhiều câu cú, chữ nghĩa nghe “lạ tai” từ miền Bắc “xâm nhập” vào miền
Nam Việt Nam và “bành trướng” ra tới hải ngoại.
“Tiếng Việt còn, nước Việt
còn”, ở đâu ta cũng nghe câu ấy nhưng chắc không phải là thứ tiếng Việt kỳ quái
hoặc “nửa Hán nửa Việt”, chẳng thấy “giàu” cũng chẳng thấy “đẹp”, chẳng thấy
“trong” cũng chẳng thấy “sáng” (chỉ thấy… tối mò mò) và chắc cũng không phải là
“Tiếng Việt mến yêu” mà chúng ta muốn “bảo tồn và phát huy” cho thế hệ con em
mình.
Nói cho ngay, tiếng Việt chắc
chắn là phải còn chứ đâu có dễ gì mất được. Có điều là đến một lúc nào đó, “tuyệt
đại đa số” (1)(hay “tuyệt
đại bộ phận” (1)) tiếng Việt đều có “chất lượng tối ưu” (1) như
thế cả thì cái “còn” ấy kể cũng… ngậm ngùi!
“Tôi yêu tiếng nước tôi từ
khi mới ra đời…”. Mỗi lần nghe câu hát ấy là mỗi
lần tôi lại phân vân tự hỏi: “Những
‘kẻ lạ mặt trong ngôn ngữ’ ấy có phải là ‘tiếng nước tôi’ (và những đứa cháu của
tôi có phải ‘yêu’ chúng ‘từ khi mới ra đời’) hay không?” Nếu không thì chúng phải
có một cái tên gì chứ? Tự điển tiếng Việt gần đây vừa có thêm một từ ngữ mới:
“tàu lạ” được định nghĩa là “tàu Trung quốc”. Để cho dễ gọi, tôi cũng muốn đặt
tên cho những “kẻ lạ mặt” ấy là “từ lạ”. Tương tự các biện pháp nhằm đối phó với
các tàu lạ, chúng ta cần đề cao cảnh giác để “phát hiện” (1) kịp
thời những “từ lạ” ngấm ngầm lẩn lút, trà trộn, xâm nhập vào phần đất của “Tiếng Việt
mến yêu”. Chỉ khi nào tống khứ được những “từ lạ” thổ tả này đi chỗ khác chơi thì chúng ta mới mong trả lại sự
“trong sáng” cho tiếng Việt.
'Tàu lạ' hay 'từ lạ' hay những 'kẻ lạ mặt' đều là những đối tượng cần
truy đuổi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét