VÌ SAO TRÂN TRỌNG GỌI LÀ "CHỮ QUỐC NGỮ" ?
● Nguyễn- Chương Mt
* Kỳ thực vẫn còn nhiều người hiện nay chưa tỏ vì sao gọi "chữ Quốc ngữ". Có hiểu thì mới yêu quí thực lòng.
* Các giáo sĩ người Bồ Đào Nha thuộc
dòng Tên (Công giáo) có công trạng đặt nền móng tạo lập chữ Quốc ngữ.
1. Khi các giáo sĩ dòng Tên người Bồ đến Đàng
Trong (từ Quảng Bình trở vô phương Nam) vào năm 1615, họ không tìm cách
"áp đặt" tiếng Bồ mà - trái lại - họ cố gắng tìm hiểu người bản xứ
nói tiếng Việt ra sao để từ đó suy nghĩ cách ký âm tiếng Việt theo hệ chữ
Latin. Người có công tiên phong là giáo sĩ Francisco de Pina, tạo nền móng
"chữ viết cho tiếng An Nam".
Giáo sĩ Alexandre de Rhodes (Đắc Lộ) đến
Đàng Trong, năm 1624, học tiếng Việt và học bộ chữ mà Francisco de Pina đã gầy
dựng. Sau đó, năm 1627, giáo sĩ Đắc Lộ ra Đàng Ngoài (miền Bắc) vừa truyền giáo
vừa phổ biến "chữ viết cho tiếng An Nam", thâu thập, bổ sung lời ăn
tiếng nói của người ngoài Bắc.
Tắt một lời, "chữ viết cho tiếng An
Nam" (về sau gọi là "chữ Quốc ngữ") bắt đầu từ Đàng Trong rồi mới
lan ra Đàng Ngoài (miền Bắc)! Việc tạo ra một bộ chữ RIÊNG cho người bản xứ
(người Việt) là công trình ĐỘC ĐÁO của các vị giáo sĩ dòng Tên!
Năm 1773, dòng Tên rời khỏi nước Việt và
mãi hơn 80 năm sau là năm 1858, người Pháp mới can dự vào lịch sử VN trong lãnh
vực chánh trị.
Thấy gì? Chữ Quốc ngữ do các vị giáo sĩ
dòng Tên đặt nền móng từ những thập niên ĐẦU THẾ KỶ 17 xa lắc, hoàn toàn thuộc
về lãnh vực ngôn ngữ học & tôn giáo, không liên can gì đến xung đột thế tục
chánh trị (khi thực dân Pháp vào xâm chiếm nước Việt là GIỮA THẾ KỶ 19, độ sai
biệt thời gian so với thời điểm các vị giáo sĩ dòng Tên vào truyền đạo là những
250 năm lận).
Cần hiểu đúng với dữ kiện lịch sử khách
quan nêu trên, không bị mắc lỡm bởi trò "gắp lửa bỏ tay người" của một
số kẻ "nghiên kíu" thiếu lương thiện (họ vu cáo giáo sĩ đặt ra chữ Quốc
ngữ để... rước Tây, cách biệt tới 250 năm, bắn đại bác còn không tới, khó vậy
mà bọn họ cũng vu cáo cho bằng được).
2. Vì sao bộ chữ do các giáo sĩ Bồ soạn
ra cho người Việt được gọi trân trọng: "CHỮ QUỐC NGỮ"?
A) Cả ngàn năm, nhiều triều đại nước Việt
đều mượn chữ Hán làm văn tự chính thức. Nói cách khác, chữ Hán không phải hệ chữ
chỉ dành riêng cho người Việt (nên không thể gọi là "quốc ngữ"). Tỉ
như, khi tiền nhân chúng ta viết dòng chữ Hán "南 國 山 河 南 帝 居", hẳn
nhiên người Hoa nhìn vào mặt chữ này là họ HIỂU nghĩa ráo trọi! Khác nhau nằm ở
tiếng nói, ở QUỐC ÂM mà thôi.
Người Việt đọc là: "Nam quốc sơn hà
Nam đế cư". Người Hoa Bắc Kinh đọc: / Nán guó shān hé nán dì jū /
Chúng ta dùng hệ
chữ "abc" được dựa trên ký tự Latin (nói cho chính xác hơn là dựa
trên bộ chữ Bồ Đào Nha của các giáo sĩ dòng Tên mà chữ Bồ cũng xuất phát từ ký
tự Latin).
Thử viết lại câu trên: "Nam quốc
sơn hà Nam đế cư". Người Bồ, người Pháp... nhìn vô mặt chữ của câu thơ
trên, họ hiểu không? – KHÔNG! Muốn hiểu được, họ phải học bộ chữ mà người VN
chúng ta sử dụng. Bộ chữ mà chỉ có người VN (và những ai học tiếng Việt) mới hiểu
tức bộ chữ này đã trở thành BỘ CHỮ VIỆT, đã trở thành CHỮ QUỐC NGỮ của RIÊNG
người VN chúng ta!
Hãy cùng nhau nhớ như vậy (ngoại trừ những
kẻ thiếu lương thiện tri thức)!
C) CHỮ QUỐC NGỮ còn hay gấp bội khi chứa
được TOÀN BỘ QUỐC ÂM (tức "tiếng nói Việt").
Khi xưa, viết 山, người Việt đọc
thành "sơn" (người Tàu Bắc Kinh đọc khác: "shān"). Cái chữ 山 này không thể
phát âm là "núi" (dù đồng nghĩa với "sơn").
Tiếng Việt mà phát âm là "sơn"
thì được ghi lại bằng chữ Hán 山 nhưng tiếng Việt
phát âm là "núi" thì không chứa trong Hán tự mà phải lang thang bên
ngoài văn tự, tồn tại trong khẩu ngữ của tiền nhân chúng ta.
Bây giờ, trong chữ Quốc ngữ, cả
"sơn" lẫn "núi" đều được ghi lại, đều được ôm ấp trong lòng
chữ Quốc ngữ, không còn phải lang thang nơi khẩu ngữ nữa.
Kể chuyện gánh hát cho vui. Hồi năm 1928,
Phước George (Bạch công tử) lập gánh Huỳnh Kỳ cho Cô Phùng Há tài danh làm đào
chánh. "Huỳnh Kỳ" 黃 旗 là nói theo kiểu
người Việt ở miền Nam (hai chữ Hán này, người Hoa Quảng Đông nói "wòng
kì", người Hoa Bắc Kinh kêu "hoảng xỉ"). Gánh hát lừng danh, đi
tới đâu báo hiệu bằng cách treo hàng loạt cờ màu vàng (nghĩa của "huỳnh kỳ"
là cờ màu vàng).
Phát âm là "Huỳnh Kỳ" (hoặc
"Hoàng Kỳ" theo kiểu nói ngoài Bắc) thì được ghi lại bằng chữ Hán: 黃 旗 nhưng phát âm
là "cờ vàng" thì bó tay, không chứa trong Hán tự.
Thời may "cờ vàng" không phải
lang thang nơi khẩu ngữ người Việt mà được ghi lại/ ký âm đâu ra đó trong chữ
Quốc ngữ cùng song hành đề huề với chữ "huỳnh kỳ".
Thấy gì? Hết thảy các lối nói trong tiếng
Việt (QUỐC ÂM) đều có mặt trong CHỮ QUỐC NGỮ.
3. Hãy cùng nhau tri ân các vị giáo sĩ
dòng Tên, nhứt là đối với Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes. Các ngài dựa
trên chữ Bồ, chữ Latin mà đặt ra một bộ chữ cho tiếng Việt, đặc biệt tới mức...
những người Bồ, Latin đồng hương với các ngài nhìn vào bộ chữ mới này cũng
không thể nào hiểu được (nếu không học) bởi vì đây là TẶNG PHẨM NGÔN NGỮ được
DÀNH RIÊNG CHO NGƯỜI VIỆT mà thôi (Francisco de Pina, Alexandre de Rhodes trong
những bức thư, hồi ký của họ đều coi nước Việt là "quê hương thứ hai, mến
yêu" tận trong tâm khảm)./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét