Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2019

ĐƯỜNG CỔ NGƯ XƯA

ĐƯỜNG CỔ NGƯ XƯA
Nguyễn Ngọc Tiến


Hồ Tây và hồ Trúc Bạch nguyên chỉ là một. Từ thế kỷ 17, người dân đánh cá quanh vùng đắp con bờ nhỏ từ Yên Hoa xuống Yên Ninh cho khỏi đi vòng, rồi sóng vỗ, thời gian xô lở, năm nào cũng phải đắp lại cho vững, thành ra con đường có tên Đê Cố Ngự (nghĩa là giữ cho vững).
Người Pháp quản lý Hà Nội, vốn quen đọc chữ Việt cũng không có dấu giọng, lâu dần chệch ra thành Đường Cổ Ngư.
Trước hết nói về Hồ Trúc Bạch. Hồ này xưa thuộc địa phận làng Trúc Yên, một làng có nghề biên mành trúc. Thời Lê - Trịnh, chúa Trịnh Giang (1711-1762) đã xây một khu để nghỉ ngơi bên hồ nhưng sau biến nó thành lãnh cung gọi là Trúc Tầm Viện. Những cung nữ thất sủng bị đưa ra đây tự lao động để sinh sống bằng nghề chăn tằm, dệt lụa, ôm đau đớn, tủi hổ làm lụng chờ ngày được chúa tha về.
Lạ thay các tấm lụa do cung nữ dệt ra rất đẹp, trở nên nổi tiếng.
"Lụa làng Trúc vừa thanh vừa bóng
May áo chàng cùng sóng áo em
Chữ tình gắn với chữ duyên
Xin đừng thay áo mà quên lời nguyền"
Cái tên Trúc Bạch từ Trúc Tầm Viện từ đó mà ra.
Cạnh hồ Trúc Bạch, có làng Ngũ Xã là nơi nổi tiếng về nghề đúc đồng, thờ tổ nghề. Xưa có lò đúc tiền của các triều đại quân chủ. Hương cống Đoàn Nguyễn Tuấn (1750-?), hiệu Hải Ông, đỗ Hương cống đời Lê, làm quan thời Tây Sơn. Đoàn Nguyễn Tuấn để lại một tập thơ chữ Hán là Hải Ông thi tập trong đó có nhiều bài thơ ca ngợi cảnh vật đất Thăng Long. Bài thơ Trúc Bạch tiền lô bằng chữ Hán của ông như sau:

"Cửu trùng cận niệm dụ dân đồ,
Tiền hóa lưu thông Trúc Bạch lô.
Nhân tại kiều đầu hô tống thán,
Hỏa tòng sa thượng xuất phi phù.
Tằng tằng yên trảo Long Châu tự,
Hạo hạo tuyền lưu Mã Cảnh hồ.
Tuế nguyệt phương viên công khóa túc,
Yêu chiền hà tất thướng Dương Châu."

Tạm dịch: Trên cửu trùng (nhà vua) tính kế cho dân đầy đủ. Đồng tiền lưu thông trong nước từ lò Trúc Bạch. Người trên đầu cầu gọi than đưa tới. Lửa từ trên cát tung đàn ve bay. Lớp lớp khói phủ lên chùa Châu Long (gần chợ Châu Long ngày nay). Mênh mông suối chảy vào hồ Cổ Ngựa (khu vực phố Hàng Than ngày nay). Năm tháng vuông tròn, thuế công nạp đủ. Lưng đeo tiền hà tất phải lên Dương Châu. (Phan Trọng Chánh dịch và chú giải).
Sau đó, người ta lên kế hoạch sửa sang lại đường Cổ Ngư và bờ hồ Trúc Bạch đồng thời cũng dự kiến xây nhà hát ngoài trời mang tên Nhà hát Nhân dân ở cuối phố Phó Đức Chính. Sân khấu của nhà hát nằm trên mặt hồ Trúc Bạch.
Tuy nhiên, mới chỉ làm được một việc là mở rộng đường Cổ Ngư. Và cũng từ năm này, bán đảo Ngũ Xã trở thành nơi đổ xỉ than của Nhà máy điện Yên Phụ. Trong bản quy hoạch Hà Nội năm 1943, hồ có diện tích 29,6 ha. Sau khi kè hồ năm 2000, diện tích hồ hiện chỉ còn 22ha mất gần 1/4 diện tích.
Về sự hình thành đường Cổ Ngư, Đại Việt sử ký chép: “Năm 1427 Bình Định Vương Lê Lợi sai đắp đường từ Yên Hoa xuống Cửa Bắc thành Đông Quan để tấn công quân Minh bị vây trong thành”.
Năm 1514 vua Lê Tương Dực sai mở rộng thành Thăng Long, trong đó đắp tường bao quanh cả quán Trấn Vũ. Sử cũ cũng chép năm 1640, dân mấy làng ven hồ cùng nhau đắp thêm tạo ra một cái đập để thuận tiện cho việc bắt cá ở Hồ Tây và Trúc Bạch.
Khi chính phủ Pháp tổ chức đấu thầu phá tường thành Hà Nội, sau đó xây dinh toàn quyền thì Cổ Ngư lại được chú ý. Khi đắp đê Yên Phụ họ cũng mở rộng Cổ Ngư, cho trồng phượng dọc hai bên đường, cho lắp hàng đèn đốt bằng khí đất đèn thắp sáng vào ban đêm.
Tối tối, người của Sở Lục lộ đi mở van dẫn khí từ dưới chân cột lên đèn rồi châm lửa. Trước đó, khi màn đêm buông xuống, thành phố bị bóng đen bao phủ, nay có đèn đường đã tạo ra các hoạt động đô thị buổi tối là bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển Hà Nội. Ánh sáng khiến hồ Tây và Trúc Bạch lung linh và huyền ảo hơn.
Năm 1957, thành phố quyết định mở rộng Cổ Ngư thành đường đôi. Tham gia xây dựng là hàng vạn thanh niên các cơ quan nhà máy, xí nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Ngày Chủ nhật, nghìn nghịt trai gái, kẻ gánh người đẩy xe cải tiến chở đất từ bãi sông Hồng vào đắp đường. Giờ nghỉ giải lao, có nghệ sĩ kéo đàn động viên. Vì đất bãi là cát và phù sa nên người ta cho vật đất dưới hồ đắp hai mép. Vì đường có công sức của hàng vạn thanh niên nên đã đặt tên là đường Thanh Niên.

Không có nhận xét nào: