Thứ Sáu, 15 tháng 5, 2015

THƠ ĐƯỜNG - NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT

THƠ ĐƯỜNG - NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT
(PHIẾM CHỮ NGHĨA MÀ CHƠI)
Thái Quốc Mưu
(Atlanta, Hoa Kỳ) 

Bất cứ chuyện gì, nếu nói nhiều, nghe nhiều, bị nghe lại, dễ chán. Trên datdung.com, tôi đã viết “TẢN MẠN THƠ ĐƯỜNG”. Nay lại viết “THƠ ĐƯỜNG - NHỮNG ĐIỀU ÍT NGƯỜI BIẾT”. Đúng là bệnh lý của tôi bị “Đường Thi hành” nhưng thú thật, tôi không thấy chán. 
Thơ Đường là cõi mênh mông vô định, càng đi sâu, càng học, càng khám phá thì thấy Thơ Đường dường như có sự mầu nhiệm kỳ quặc mà từ xa xưa, Thượng Đế đã biệt đãi nhiều bộ óc ưu tú (xin thưa, người viết không có tên trong những bộ óc vừa nêu) cho thể loại thơ nầy. Với 8 câu, mỗi câu 7 chữ, toàn bài Thơ Đường chỉ có 64 từ. Thế mà chơi Đường Thi cả đời không ai có thể tự hào, biết đủ, biết hết. 
Thường, người ta làm Thơ Đường chỉ theo sự dạy bảo dưới mái trường, cứ làm theo luật Bằng, Trắc, Niêm, Vần và Đối là coi như bài thơ hoàn tất. Quá đơn giản! “Đơn giản” nhưng ngay cả những vị đứng trên bục giảng, quý vị Học giả hoặc những bậc Thi hào, Thi bá cũng không hoặc chưa biết hết về Thơ Đường. Đa số mỗi người chỉ biết một góc cạnh Đường Thi. 
Hầu hết những danh nhân trong lãnh vực thi ca ở ta, ở Tàu đều nổi danh nhờ Đường Thi. Dường như nước ta trước nay chỉ có hai tập truyện thơ Lục Bát: Truyện Kiều của Nguyễn Du và Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được đi vào văn học sử. Truyện Kiều nặng về điển tích, bác học. Còn Lục Vân Tiên hướng về, đi sâu vào quần chúng. Phần còn lại gần như đa số các bậc Thi Hào, Thi Bá của ta hay Tàu đều thành danh từ Đường Thi. 
Và do nhu cầu thưởng thức thơ Đường quá lớn, quý Nhà thơ Việt Nam không “sản xuất” đủ thơ Đường khiến cán cân cung cầu bị lệch. Vì vậy, một số Học giả, Dịch giả nước ta tìm đọc và dịch các tác phẩm Đường Thi của Trung Quốc. 
Trong những vị đóng góp trí tuệ, công sức lớn lao vào dịch thuật Đường Thi nổi bật hơn cả có Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Trần Trọng San, Hư Chu,.... Những tác phẩm dịch thuật chẳng bao nhiêu so với số lượng đồ sộ của Đường Thi. Đa số các Dịch giả chỉ chọn những tác giả có bề thế để dịch nhưng những tác phẩm chưa được chọn dịch không hẳn là thơ chưa hoặc không hay, kém hoặc không bề thế. Các tác giả “chưa hay” hoặc không được biết đến chẳng qua vì họ ẩn cư hoặc cuộc đời trầm lặng bình thường hoặc không có phương tiện truyền đạt, không được giới vua chúa, quan quyền biết đến – nhất là họ không có những huyền thoại riêng tư về cuộc đời... 
Suy cho cùng, những dịch giả nước ta chọn những danh phẩm để dịch có thể do nhiều lý do khác nhau. Chẳng hạn, tên tuổi tác giả, nhu cầu kinh tế và không loại trừ... “ăn theo tên tuổi” vì chẳng ai bỏ công sức ra dịch một thi tập, xong rồi... để đó. Chẳng ai dại gì chọn một tác phẩm mà tên tuổi tác giả tác phẩm ít hoặc chưa được nhiều người biết đến,... để sau khi dịch xong, không nhà xuất bản nào chịu mua tác quyền hoặc chấp nhận in ấn, phát hành,... 
Nói như vậy không có nghĩa người viết phủ nhận công lao, trí tuệ những vị dịch giả chân chính dày công trong việc dịch thuật các danh tác với mục đích cao cả là góp phần vào việc xây dựng nền văn học nước nhà thêm phong phú. 
Ở Trung Quốc, thơ Đường phát triển và thịnh hành nhất từ năm 618 đến 1911. Thời gian trên 1.300 năm đó là thời kỳ vàng son của Đường thi, là thời bộc phát những đại thi hào với những tuyệt tác. Đó cũng là thời gian bùng nổ những giai thoại, thi thoại, huyền thoại góp phần điểm tô thêm tên tuổi cho các Nhà thơ. Chuyện Lý Bạch xuống sông mò trăng là một. Như mọi người đều biết thơ Lý Bạch vào hàng Thi Bá nhưng điều để cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp trong xã hội nhớ đến ông không phải do thơ ông quá hay mà do huyền thoại ông say xỉn, xuống sông “Mò trăng đáy nước”. Những “cái ngông” của giới thi nhân như Bùi Giáng đã góp phần không nhỏ cho việc ươm mầm, vun quén tên tuổi của họ lưu lại đời sau. 
Theo Giảng sư, Học giả Minh Di, “những nghiên cứu về thể thơ, về luật thơ... và tới những bình phẩm về Đường thi của Trung Hoa hầu hết đều được ghi chép trong các tập gọi là Thi thoại. Và không triều đại nào có số lượng các tác phẩm trong lãnh vực Thi thoại có thể vượt hơn đời Tống (960 - 1279). Do đó, muốn tìm hiểu thấu đáo về Đường thi, người ta có thể tìm thấy những gì mình muốn biết trong các tập Thi thoại này.
Theo “Tứ Khố Toàn Thư Tổng Mục Đề Yếu”, “Đời Đường có 2.200 Nhà thơ, sáng tác gần 49 (bốn mươi chín) ngàn bài thơ. 
Đặc biệt riêng đời Tống, bộ “Tống Thi Toàn Tập” có 60 cuốn, mỗi cuốn 500 trang, không có nói số lượng bài thơ (Trung Hoa Thư Cục, xuất bản). Nhưng đa số các Nhà Học giả Trung Quốc nhận định thơ Đường đời Tống bằng hoặc nhiều hơn Thơ Đường thời Nhà Đường.” (ngưng trích). 
Chỉ có đời Tống mới gọi thơ Đường viết trong Đời Tống là Tống Thi ( ). Hầu hết, Tống Thi đều được gọi là Thơ Đường (唐詩), vì luật của Đường thi xuất phát từ thời Nhà Đường (唐朝). Thơ Đường tức thơ Cổ Phong (古風) còn gọi là Cổ Thể Thi (古体) hay Cổ Thi () được sửa đổi, nhuận sắc dần dần đến khi hoàn chỉnh như ngày nay.
Đường thi được chia ra làm hai loại: Luật Thể như thường thấy và Tạp Thể (hay Biến Thể) như Thủ Vĩ Ngâm, Vĩ Tam Thanh, Liên Hoàn, Táo Tạo,... Luật Thể có hai hình thức: Thất Ngôn Bát Cú và Ngũ Ngôn. 
Các thể Thủ Vĩ Ngâm, Vĩ Tam Thanh, Liên Hoàn... nhiều người đã biết khi còn cắp sách đến trường. Còn thể Táo Tạo có thể nhiều người đã đọc qua nhưng không biết tên gọi là gì. Táo Tạo là Thơ Đường biến thể, câu 1 bắt buộc phải vần Trắc và phá vận. Các câu 2, 4, 6 và 8 cùng vận (vần). Tóm lại, Thơ Đường nguyên thủy phải có 5 vần (vận) nhưng khi biến thể thành Táo Tạo chỉ còn 4 vần và chữ thứ 7 của câu 1 bắt buộc phải vần trắc. Dưới đây là bài “Văn Quan Quân Thu Hà Nam, Hà Bắc” của Đỗ Phủ làm theo thể thơ Táo Tạo:

     Kiếm ngoại hốt truyền thu Kế Bắc,
     Sơ văn thế lệ mãn y thường (vận).
     Khước khan thê tử sầu hà tại
     Mạn quyển Thi thư hỉ dục cuồng (vận)
     Bạch nhật phóng ca tu túng tửu,
     Thanh xuân tác bạn hảo hoàn hương (vận)
     Tức tòng Ba giáp xuyên Vu giáp,
     Tiện hạ Tương Dương hướng Lạc Dương (vận)
                               (Đỗ Thi Kính Thuyên. Qu. IX)

Trong Thơ Đường, luật Bằng, Trắc rất quan trọng nhưng Niêm và Đối còn quan trọng hơn. Vậy thế nào là Niêm, Đối?
NIÊM:
Trong Văn Học Sử Yếu của Học giả Dương Quảng Hàm, định nghĩa Niêm như sau (trích): 
     a)- Nghĩa đen là dính – là sự là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ Đường luật. Hai câu thơ Niêm với nhau cùng theo một luật hoặc cùng thanh Bằng hoặc cùng thanh Trắc thành ra Bằng niêm với Bằng, Trắc niêm với Trắc.
     b)- Những câu Niêm với nhau trong một bài thơ Thất Ngôn Bát Cú: 1 với 8, 2 với 3, 4 với 5, 6 với 7 và... 8 với 1
Nhưng, theo Học giả, Giảng sư đại học Minh Di thì (trích):
“Định nghĩa về Niêm của ông Dương Quảng Hàm còn hẹp! Cần phải thêm: 
Trong Luật thi, các tiếng bằng / trắc đặt không đúng chỗ, Thi học Trung Hoa gọi chung là “thất niêm”. 
Chú thích: câu “Thái thanh thượng sơ nhật” thất niêm của Mã Chu (? - ?), dẫn trong tập “Khương Trai Thi Thoại”, Đới Hồng Sâm viết:
     * Án: Luật thi bình, trắc thất điệu chi hiện tượng thống danh “thất niêm”.
     * Xét: Hiện tượng bằng, trắc thất điệu trong Luật thi được gọi chung là “thất niêm”.
Tham khảo:
- Khương Trai Thi Thoại (?). Qu. II. Tịch Đường Vĩnh Nhật Tự Luận Nội Biên” (Ngưng trích). 
ĐỐI: 
Ở cặp Trạng (câu 3 và 4) và ở cặp Luận (câu 5 và 6) phải đối nghĩa là các chữ theo thứ tự trong câu phải đối chọi, đối nghịch với nhau. Đồng thời, hai cặp Trạng và Luận Tứ Thơ phải phân minh, không trùng. 
Theo Lãnh Trai Dạ Thoại. Qu. IV. 12 thì (trích): “về cách Đối câu, Nhà thơ có quyền biến hóa, đối ý, đối nghĩa, đối… thế nào để người đọc biết đó là hai câu đối nghịch nhau về ý nghĩa và tứ thơ. (ngưng trích). 
Thơ là Nhạc; do đó, một bài thơ phát tiết âm thanh, có nhạc điệu, đọc lên êm, xuôi tai, có ẩn dụ, không bị trúc trắc. Bài thơ không có tính nhạc, đọc nghe không êm, thiếu ẩn dụ sẽ bị những người biết thưởng thức thơ gọi là “tìm chữ ráp vần.”
Trong Đường Âm Quí Thiêm. Qu. IV. Pháp vi 3, viết (trích):
Các loại đối, như:
            1.- Đương cú đối (đối trong câu)
           2.- Giao Cổ đối (đối chéo nhau, chữ thứ 7 câu dưới đối lại chữ thứ 4 câu trên)
            3.- Lưu thủy đối, còn gọi Thập Tứ Tự Đối
            4.- Thiển đối
            5.- Tục cú đối
            6.- Lưu thủy đối    
            7.- Khai Môn Đối    
            8-. Giả đối. còn gọi là Tá đối (Giả Không thực. Tá Mượn).
            9-. Tha đối,….  
     “Thí dụ trong bài Tần châu Tạp Thi (Kỳ 3):

秦州雜詩 (其三)
州圖領同谷,
驛道出流沙。
降虜兼千帳,
居人有萬家。
馬驕朱汗落, (Mã kiêu chu hãn lạc)
 胡舞白題斜。(Hồ vũ bạch đề tà)
            年少臨洮子,
西來亦自誇。

Ghi chú: Tác giả mượn chữ CHU của mồ hôi đỏ từ một giống ngựa (HÃN HUYẾT MÃ) để đối chữ BẠCH nghĩa là TRẮNG ở câu dưới vì chữ CHU trong câu không thực là chữ CHU = đỏ), vì vậy mà gọi là Giả đối dù rằng 2 chữ CHU này đồng âm. 
Hoặc trong Bài Chư Tướng:
            Kiến sầu hãn mã Tây Nhung bức,
            Tằng thiểm chu kỳ Bắc đẩu ân.
Hai câu dẫn trên là 2 câu 5 / 6 của bài thứ nhất trong 5 bài CHƯ TƯỚNG của Đỗ Phủ. (Tham khảo: Đỗ Thi Kính Thuyên. Qu. XIII). Hai chữ “hãn mã” tức “hãn huyết mã”, một giống tuấn mã mồ hôi sắc đỏ như máu. Ở đây mượn chữ HÃN (chỉ mồ hôi đỏ) đối chữ CHU (sắc đỏ) ở câu dưới.” đồng nghĩa với Ghi chú ở đoạn trên đây. 
  9.- Tha đối: Còn gọi là Sa đối. Có 2 cách: Thập tự cách và Thập tứ tự cách.
Tha đối, Chữ Tha ở đây cũng đọc âm Sa.
    
Xuân tàn diệp mật hoa chi thiểu
            Thụy khởi trà đa tửu trản sơ  
            (Xuân tàn lá rậm hoa cành ít,
            Thức giấc trà nhiều chén rượu thưa) (ngưng trích)

Trong “Quí Thiêm Thi Thoại”, giảng giải cách đối của Tha Đối (Sa đối), đại khái như sau:
- Câu trên Rậm (4) đối lại Thưa (7) câu dưới
            - Câu trên (3) đối lại Rượu (6) câu dưới
            - Câu trên Ít (7) đối lại Nhiều (4) câu dưới.
(Các số trong ngoặc đơn là thứ tự của chữ, từ trái sang phải ở trong câu).

Cá nhân tôi - Thái Quốc Mưu - biết làm thơ Đường từ năm 12 tuổi, 14 tuổi coi như nhuần nhuyễn, lên 16 tuổi có Thơ Đường đăng trên các nhật báo (với bút hiệu Liêu tần Tử) nhưng không hề làm thể loại đối nầy vì quá rắc rối làm đau đầu, nhức óc.
Tóm lại, rất nhiều thể đối, người viết không thể nhớ hết và không biết giải như thế nào cho chính xác, không dám lạm bàn. Xin miễn chấp. 
Ngay trong mỗi câu thơ ở bài Thơ Đường cũng có những chữ mang tên gọi đặc biệt. Chẳng hạn, trong thơ Ngũ Ngôn, chữ thứ Ba (3), trong Thất Ngôn Bát Cú chữ thứ Năm (5) được gọi là TỤ LỰC. Tụ Lực là kết hợp sức mạnh đẩy lên, làm cho toàn câu thơ nổi bật, mạnh lên. TỤ LỰC có tên là HƯỞNG TỰ.
Theo Giảng sư, Học giả Minh Di (trích): 
“Hưởng tự còn được gọi là “thi nhãn” (con mắt của bài thơ).
+ Nói “hưởng tự” là “chỗ Tụ Lực (trí lực xứ) của bài thơ là ý nói “chữ này” có tác dụng nhấn mạnh, làm sắc hơn một ý tưởng, một tình, một cảnh nào... Tác dụng này có thể chỉ giới hạn trong một vài câu nhưng cũng có thể trải rộng khắp bài thơ.” 
Thế nhưng tại sao “HƯỞNG TỰ” phải gieo ở chữ thứ 3 trong thơ ngũ ngôn và chữ thứ 5 của thơ thất ngôn? 
Chúng ta đều biết mạch tức nhịp của câu thơ ngũ ngôn là 2 / 3, mạch của câu thơ thất ngôn là 4 / 3. 
Sở dĩ “hưởng tự” phải được gieo ở vị trí của chữ thứ 3 trong câu thơ Ngũ ngôn và ở chữ thứ 5 trong câu Thất ngôn là vì 2 vị trí này nằm ở giao điểm của 2 nhịp, nhịp trước vừa xuống thì nhịp kế tiếp cần phải vút lên để câu thơ khỏi trầm trệ! 
Và như vậy, nếu tìm được, nếu viết được đúng một “hưởng tự” thì “lực” và âm hưởng của chữ này càng vút cao hơn! Do đó mà gọi là “Hưởng Tự” – Hưởng nghĩa là “âm thanh dội lại (hồi thanh)” (ngưng trích).
Trong bài thơ dưới đây các chữ tô đậm là Tụ Lực = Hưởng Tự.

                        PHẢN CHIẾU
            Sở vương cung Bắc chính hoàng hôn,
            Bạch Đế thành Tây quá vũ ngân       
            Phản chiếu nhập giang phiên thạch bích,
            Qui vân ủng thụ thất sơn thôn.
            Suy niên phế bệnh duy cao chẩm,
            Tuyệt tái sầu thời tảo bế môn.           
Bất khả cửu lưu sài hổ loạn,  
            Nam phương thực hữu vị chiêu hồn!
                        (Đỗ Thi Kính Thuyên. Qu. XIV).
Phỏng dịch:
                          RỌI LẠI
            Hoàng hôn phủ xuống Bắc cung vua
            Bạch Đế thành tây lộng gió mưa
            Nắng tắt sông chao nghiêng vách núi
            Mây giăng cây phủ khuất làng xưa   
            Phổi đau nằm gối đầu cao hẳn...
            Ải vắng cài then bóng xế vừa…
            Lánh bọn sài lang gây náo loạn
            Về Nam lạc cảnh vẫn còn chưa…!
                                      Atlanta, May 15, 2015
                                          Thái Quốc Mưu
                                   
Đã vậy, Thơ Đường còn là “kẻ khó tính, mang nhiều thứ bệnh” do luật thơ khắt khe, người làm thơ  Đường dễ bị nhiễm: 
1 - Bình Đầu (Bằng nhau ở đầu câu): Ba chữ đầu câu của 4 câu liên tiếp cùng một loại tự (như, danh từ, động từ...)
2 - Thượng Vỹ (Đuôi cao lên):
Ba chữ cuối hoặc 3 chữ thứ 5 của 4 câu liên tiếp cùng một loại tự (như cùng tính từ,...) 
3 - Phong Yêu (Eo con Ong): Chữ thứ 2 và chữ thứ 7 trong cùng một câu đều là thanh Bằng hoặc Trắc. 
4 - Hạc Tất (Đầu gối chim Hạc): Chữ thứ 4 và chữ thứ 7 trong cùng một câu đều là thanh Bằng hoặc Trắc. 
5 - Chánh Nữu: Trong 1 câu có 3 chữ có phụ âm hay nguyên âm đầu giống nhau, ngoại trừ các chữ láy, ghép. 
6 - Bàng Nữu: Trong 4 câu liên tiếp có từ 4 chữ có phụ âm hay nguyên âm đầu giống nhau, ngoại trừ các chữ láy, ghép. 
7 - Đại Vận: Chữ thứ 4 và 7 trong cùng một câu trùng vần với nhau 
8 - Tiểu Vận: Chữ thứ 2 và 7 trong cùng một câu trùng vần với nhau.
Gọi chung là Bát Bệnh của Thơ Đường 
Tuy nhiên, đó là nói về sự khắc khe của LUẬT thơ Đường. Thực tế, ít người làm thơ tránh khỏi sự khắc khe ấy.
"Qua Đèo Ngang" là một bài thơ rất nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan, nếu dựa vào 8 Bệnh của thơ Đường Luật, thử xem bài thơ này có bao nhiêu Bệnh:

QUA ĐÈO NGANG

Bước tới đèo Ngang, bóng xế tà,
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa.
Lom khom dưới núi, tiều vài chú,
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà.
Nhớ nước đau lòng, con cuốc cuốc,
Thương nhà mỏi miệng, cái gia gia.
Dừng chân đứng lại, trời, non, nước,
Một mảnh tình riêng, ta với ta.

- Bệnh Bình Đầu: Chữ đầu câu của 4 câu cuối có 3 chữ Nhớ-Thương-Dừng cùng tự loại là Động từ
- Bệnh Thượng Vỹ: Chữ cuối 4 câu trên có 3 chữ Hoa-Chú-Nhà cùng là danh từ
- Bệnh Phong Yêu: ở câu 2 có chữ Cây Hoa cùng thanh Bình. Câu 5 có chữ Nước và cuốc cùng thanh Trắc. 
- Bệnh Hạc Tất: Câu 3 có chữ thứ 4 là núi và chữ thứ 7 là chú cùng thanh Trắc. Câu 8 chữ riêng và chữ ta đều thanh Bình.
- Bệnh Chánh Nữu: Câu cuối có 3 chữ cùng phụ âm “T”
- Bệnh Bàng Nữu: ở 4 câu cuối bị bệnh này,  5 chữ mang cùng phụ âm đầu là 5 chữ “T” và 4 chữ M, 5 chữ “N”
- Bệnh Đại Vận: câu thứ 2 có chữ thứ 4 là đá chữ thứ 7 là hoa cùng vần “A” 
- Bệnh Tiểu Vận:  Câu thứ 6 có chữ thứ 2 là nhà và chữ thứ 7 là gia trùng vần “A” 
Người xưa còn vương nhiều lỗi huống chi bọn hậu sinh! 
Ngoài Bát Bệnh đó còn có các lỗi sau: 
1. Lạc vận / 2. Lạc đề / 3. Thất niêm, thất luật / 4. Thất đối / 5. Khổ độc / 6. Điệp thanh / 7. Điệp điệu / 8. Điệp âm / 9. Trùng vận / 10. Trùng từ / 11. Điệp từ / 11. Trùng ý / 12. Hiệp Chưởng / 13. Phạm đề / 14. Mạ đề.

Không có nhận xét nào: